Vịn Câu Thơ Đứng Dậy Tâm Bút Trần Trung Ðạo

Có những lúc ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy

Nhà thơ Phùng Quán đã kết luận như thế khi nhìn lại quãng đời 30 năm ông đã sống trong bóng tối của bạc đãi, đe dọa, sống trong cảnh lưu đày ngay giữa lòng Hà Nội, nơi đó, từ thuở thiếu thời, ông đã từng đổ máu để giữ gìn. Những lúc ngã lòng là những lúc nhà thơ Phùng Quán phải chọn một trong hai con đường đầy bất trắc đang chờ: tiếp tục chịu đựng khó khăn, đói khát, tiếp tục đi câu cá trộm, viết văn trộm hay nên viết một bản tự kiểm nộp lên Hội Nhà Văn để được trả lại thẻ hội viên, được mỗi tháng mua vài cân gạo và được phép sắp hàng mua một vài nhu yếu phẩm.

Những lúc ngã lòng là lúc nhà thơ phải chọn một trong hai thái độ làm người: chịu đựng sự nguyền rủa, sự rẻ khinh, sự hoài nghi, xa lánh của bạn bè, sự lãng quên của bà con thân thuộc, chịu làm kẻ mất quê hương ngay trên chính quê hương mình, hay cúi đầu khuất phục như Chế Lan Viên, Xuân Diệu …tô son điểm phấn cho một chế độ đã phản bội xương máu đồng bào, phản bội ước mơ của dân tộc.

Trong lời tựa của thi phẩm Trăng Hoàng Cung, nhà thơ Phùng Quán đã viết “Tôi đã trả giá cho Thơ bằng 30 năm tốt đẹp của đời mình. Từ năm 24 tuổi đến năm 56 tuổi, cơ chế quan liêu đã đánh trả tôi đến chí mạng. Tước đoạt của tôi quyền lao động thiêng liêng: sáng tác, xuất bản, quyền được sinh sống cho ra một con người. Và dìm ngập tôi trong bùn nhơ, lăng nhục trước công luận…. “. Và ông đã viết tiếp “Nhưng thơ đã cứu tôi, giúp tôi đứng vững, dạy tôi dũng khí bền gan”.

Thật vậy,

Có những lúc ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy

Nhà thơ Phùng Quán đã vịn thơ mà đứng dậy. Đứng dậy để làm một nhà thơ chân thật. Chân thật trọn đời. Vì chọn để làm một nhà thơ chân thật nên trong suốt 30 năm ông đã phải sống trong đói khát, trong cô đơn. Ngày 22 tháng 1 năm 1995, nhà thơ bất khuất Phùng Quán ra đi. Ông ra đi, để lại cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau Lời Mẹ Dặn:

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Xa hơn, nửa thế kỷ trước ngày Phùng Quán qua đời, bên bờ sông Pắc-Nậm chia hai nước Việt Trung, đã có một thanh niên Việt Nam khác vịn câu thơ đứng dậy. “Nước non ta ai ngăn trở ta về !” Chàng thanh niên Việt Nam 22 tuổi thét lên giữa núi rừng Việt Bắc khi đứng nhìn về phía bên kia sông Pắc-Nậm. Thấp thoáng trong đám sương mờ là những bức tường vôi, là những làn khói trắng thân yêu. Đó là tổ quốc của ông, là quê cha, quê mẹ của ông. Chỉ cách một dòng sông nhỏ mà xa như nghìn trùng diệu vợi:

Ta đã về đứng bên bờ Pắc Nậm.
Mặc heo may quấn quít hồn cố hương,
Thấm hàng cây lấp ló những ven tường.
Hòa làn khói mơ màng bao nhớ ước.
Cách dòng nước ta là người mất nước,
Nước non ta, ai ngăn trở ta về?

Người thanh niên 22 tuổi, tác giả của bài thơ không ai khác hơn là nhà cách mạng, triết gia, và nhà thơ Lý Đông A.

Cách dòng nước ta là người mất nước,
Nước non ta ai ngăn trở ta về.

Mỗi lời thơ của ông thống thiết như tiếng chim Quốc gọi nửa đêm, như từng mũi kim đâm sâu vào tim, như từng hạt cát rơi vào sâu trong mắt của những người có quê hương mà đã mất quê hương.
Và xa hơn nữa, gần một ngàn năm trước (1077), bên dòng sông Như Nguyệt, danh tướng và cũng là nhà thơ Lý Thường Kiệt đối diện với hàng chục vạn hùng binh của đại tướng Quách Quì nhà Hán. Cuộc chiến đã diễn ra suốt tháng. Quân Nam đang yếu sức. Kinh đô Thăng Long đang bị đe dọa. Giữa lúc nguy nan đó, Lý Thường Kiệt đã vịn thơ mà đứng dậy qua bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:

Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !

Dịch:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời !

Đọc lại dòng sử Việt rạng ngời, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra rằng không phải chỉ những anh hùng dân tộc, những nhà cách mạng như Trần Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Đặng Dung, Nguyễn Trãi, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Lý Đông A, Phùng Quán … đã vịn câu thơ đứng dậy mà ngay cả dân tộc Việt Nam cũng đã hơn một lần vịn thơ đứng dậy trong hai cuộc kháng Nguyên lừng lẫy. Thơ, trong lúc khó khăn đó, đã chuyên chở niềm tin về cho dân tộc như Thượng Tướng Trần Quang Khải đã dặn dò:

Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước đó nghìn thu

Dân tộc Việt Nam là dân tộc của thi ca và mỗi người Việt Nam là một nhà thơ. Nhận xét đó không phải quá khoe khoang hay cường điệu.
Thơ Việt Nam thật tuyệt vời. Thơ Việt Nam chảy qua những giòng sông trăng thơ mộng. Thơ trải trên những cánh đồng lúa chín phì nhiêu qua những câu ca dao tình tứ dễ thương đầy ý nghĩa:

Tạnh trời mưa kéo về non
Hẹn cùng cây cỏ chớ còn trông mưa
(Ca Dao)

Thơ Việt Nam hôn lên vầng tráng thơ ngây của những em bé mục đồng đang ngất ngây trong tiếng sáo chiều dìu dặt. Thơ Việt Nam lau khô những giọt mồ hôi trên lưng bác nông phu qua những điệu hò khoan đối đáp nhịp nhàng. Thơ Việt Nam thổi làn gió mát trên vai chị hàng rong qua những tiếng rao dài cảm động. Thơ Việt ngủ trong giấc tương tư của những cô gái Việt vừa mới biết yêu:

Ai đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
(Ca Dao)

Trong suốt thế kỷ 20 trùng trùng khói lửa, từ những nhà cách mạng tiên phong, những nhà thơ nhà văn tên tuổi cho đến những người dân Việt bình thường, ít ra cũng một lần đã vịn thơ mà đứng dậy, đứng dậy sau những năm tháng dài trong lao lung tù tội, đứng dậy sau những ngày khó khăn đói khát, đứng dậy sau những lần bị hải tặc dày vò, đứng dậy sau những chuyến hải hành trên biển đông giông bão, đứng dậy trong những đêm đông tuyết trắng trên xứ người xa lạ buồn đứt ruột.

Và hôm nay, đất nước Việt Nam thời đại năm 2000, với một thể chế chính trị độc tài hà khắc, một xã hội tham nhũng được xếp vào hàng thứ 3 tại Á Châu (theo Political and Economic Risk Consultancy (PERC)), một nền văn hóa nô dịch vong bản, hơn bao giờ hết, đang cần một câu thơ để vịn đứng lên, và cũng hơn bao giờ hết, mong tìm ra một câu kết luận như Nguyễn Trãi một lần đã kết luận trong tuyệt tác văn chương Bình Ngô Đại Cáo của ông :

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Xin cầu nguyện cho đàn chim Việt trên vùng đất mà nhà văn đã tuẫn tiết Phạm Việt Châu gọi là Vùng Định Mệnh, qua bao nhiêu sóng gió, cuối cùng sẽ cùng nhau viết nên bài sử thi vinh quang cho một nước Việt Nam Mới tự do dân chủ và thịnh vượng, một nước Việt Nam không còn xiềng xích, hận thù, không còn bị giới hạn bởi các lằn ranh, vĩ tuyến, hiệp định, địa phương, trong nước, ngoài nước, tôn giáo.
Tác giả của bài hùng sử thi Việt Nam Mới đó chắc chắn không phải chỉ một ai, một cá nhân nào, một anh hùng nào, một tổ chức đảng phái nào, nhưng là của cả dân tộc Việt Nam đang đứng lên để nhận diện chính mình, nhận diện quê hương mình, nhận diện đồng bào cùng máu mủ với mình sau hơn một thế kỷ bị bịt mắt bằng những tấm vải đen tham vọng quốc tế, bị cách ly bằng những hàng rào ý thức hệ ngoại lai.
Để được nghe bài thơ đó, ngay hôm nay và từ trong mỗi trái tim, người Việt, trong và ngoài nước, phải can đảm vượt thoát khỏi quỹ đạo mặc cảm, tị hiềm, ghen ghét đã vướng sâu vào tâm thức như kết quả của mấy mươi năm tương tàn đẫm máu, phải biết đoàn kết nhau trên một mẫu số chung duy nhất: Dân Tộc, và một mục tiêu duy nhất là cứu đất nước ra khỏi vũng lầy độc tài, nghèo nàn, lạc hậu hiện nay. Và từ đó, cùng nhau chắp cánh bay vào lòng Mẹ Việt Nam, bao giờ cũng bao dung và rộng lượng, đang dang tay chờ đón.

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button