Trầu cau qua Thi ca
Nguyễn Qúy Ðại, Munich Germany
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên anh sánh với tình anh tuyệt vời
Ngày xưa người Việt thường có thói quen ăn trầu trở thành phong tục, chuyện thần thoại Trầu Cau (1) truyền tụng qua dân gian nêu lý do tại sao có tục ăn trầu. Khi đi ra ngoài đàn ông hay đàn bà đều có túi trầu, trong nhà có giỏ trầu cau, bình vôi bằng sứ hay bằng sành, cái khay gỗ hình vuông cẩn ốc xa cừ .
Qua thi ca trầu cau liên quan đến tình duyên giữa những đôi trai gái, về hôn nhân đôi khi không đòi hỏi mâm cao cổ đầy, bạc vàng châu báu, nhưng tuyệt đối phải có trầu cau, các vùng thôn quê đôi khi hai gia đình nhận lễ vật trầu cau, chai rượu thành suôi gia
Ngày nay còn lưu lại mỹ tục đó, trầu cau làm cho lễ vật sính lễ tăng thêm phần long trọng, nhà gái nhận lễ vật tặng bà con, hàng xóm gói trà, cái bánh, trái cau lá trầu, ăn hay không chẳng ai từ chối, ở hải ngoại không thường bán trầu cau phải đặt mua từ Việt Nam .
Ðàn bà Việt Nam ngày nay phần nhiều không ăn trầu, tuy nhiên tại các vùng quê ít người lớn tuổi còn ăn trầu có hàm răng đen. Các quốc gia Âu Châu không trồng trầu cau, như Việt nam và các nước Tích Lan, Lào, Cambodia Thái Lan, còn tục ăn trầu và trồng trầu cau
Nguồn gốc cây cau dây trầu ở Mã lai, được ảnh hưởng nhiều người sinh sống vùng bán đảo Ðông Nam Á. từ đó du nhập vào Việt Nam (2) Các nước Cambodia, Mã lai. Indonesia, Ấn độ còn ăn trầu .Tôi phỏng vấn một số sinh viên du học từ các nước trên , được biết ở vùng quê của họ còn tục lệ ăn trầu. Tích Lan (Sri lanka) ngày nay mọi nghi lễ đều dùng trầu; ngay cả việc dâng cau trầu lên cúng Phật (3)
Sự Tích Trầu Cau của Việt Nam có thể hoang đường? câu chuyện ấy dù sáng tạo nhưng khuyên người đời sống phải thủy chung, đạo đức gia đình luôn được đề cao, phong tục thời xa xưa đàn bà dù không ăn trầu nhưng phải nhộm răng đen bỏ công trang điểm má hồng răng đen
Dù giàu hay nghèo tại thôn quê đều có trồng trầu cau. Qua ca dao hay các hội hè đình đám, xướng họa nhiều đề tài về trầu cau, được các nhạc sĩ phổ thành những ca khúc bất hủ Ca dao phản ảnh tình cảm, gia đình và xã hội . Hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, thi ca phát xuất tận đáy lòng đơn sơ, bóng bẫy, ấm áp như ánh nắng ban mai, mát mẽ như ngọn gió chiều dịu dàng như ánh trăng non.
Trầu cau không phải thứ đắc tiền, dùng nó làm lễ vật hôn nhân như là giao ước giữa hai họ. Trong vườn miền quê thường trồng cau ngay hàng thẳng lối, thân cây cau có dây trầu leo quanh .Miền Nam nổi tiếng 18 Thôn vườn trầu tại Gia Ðịnh goị là ( Thập Bát Lưu Viên)
Ai về tôi gởi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
Miếng trầu đi sâu vào phong tục Việt Nam, nhớ lại lịch sử, vua Lê Ðại Hành ngồi trên mình ngựa mời sứ giả nhà Tống cùng ăn trầu, đó cũng là nghi lễ ngoại giao.Trầu cau giúp cho nhiều người nên vợ chồng. Ngày xưa quan niệm hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Cha mẹ hai bên quyết định rồi con cái không thể cãi lại. Chàng yêu nàng tha thiết “tình trong như đã mặt ngoài còn e” nhưng chàng ngỏ ý qúa muộn. Cha mẹ nàng nhận lễ vật trầu cau qua lễ hỏi cuả người ta. Chàng trách em sao vội lấy chồng, để anh chờ đợi biết mặn nồng cùng ai ? Nhưng nàng nhẹ nhàn trách lại
Ba đồng một mớ trầu cau(cây)
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thưở nào ra
Trầu cau làm sính lễ, người con gái băn khoăn muốn từ chối ngay từ lúc đầu trong lễ cầu hôn
Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về ,
Em đang theo chân thầy gót mẹ
Ðể cho trọn bề hiếu trung
Miếng trầu là đầu câu chuyện, gặp nhau thường mời trầu, để dễ dàng gợi chuyện thăm hỏi
Tiện đây ăn miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là ?
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm
Trong vườn cau xanh tươi bóng mát qua một lần gặp gở, để rồi nhớ rồi thương
Vào vườn hái qủa cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu nầy têm những vôi tàu
Ở giửa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh sơi miếng trầu cay
Dù mặn, dù nhạt , dù cay, dù mồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương
Hứa hẹn mơ ước cho tương lai tươi sáng, hay để rồi tuyệt vọng ngẩn ngơ
Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trăm họ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà.
Tùy theo phong tục mỗi địa phương, sính lễ thường khác nhau : tiền bạc, xôi gất, heo quay, trà bánh rượu ..vv , tuy nhiên không thể thiếu được buồng cau
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Ðôi chăng em đắp đôi tằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
Các bà mẹ thường răn dạy con gái lúc trưởng thành, phải có những đức tính : công- dung-ngôn-hạnh, không nên vội vàng lẫn lơ nhận trầu cau của người khác , luân lý gia đình được xem là một nềân tảng vững chắc
Ði đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trãi không ngồi trầu để không ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
hay
Sáng nay tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
Trầu cau dù gói đẹp xanh tươi hấp dẫn, nhưng trước khi ăn phải kín đáo mở ra xem có nhiều vôi hay bùa mê thuốc độc trong đó chăng ?
Ăn trầu thì mở trầu ra
một là thuốc độc hai là mặn vôi
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
Miếng trầu ăn chẳng là bao
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn
Trầu cau để trong giỏ hay gói trong khăn đeo tòng teng một bên , nhiều người ghiện trầu dù đói no phải ăn một miếng trầu cau. Với tình yêu đôi trai gái mời nhau ăn trầu có cảm xúc riêng của nó, có thể để lại cho nhau những băn khoăn thương nhớ đợi chờ
Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tấm lòng
Ăn nó thỏa sự mình sự ta
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Một thương hai nhớ , ba sầu
Cơm ăn chẳng được , ăn trầu cầm hơi.
Hay
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha,
Làm cho quên cửa , quên nhà,
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới áo
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời
Con gái xa gia đình về nhà chồng làm dâu, ngày xưa thường va chạm sinh hoạt gia đình mẹ chồng nàng dâu, hay bị ép buộc lấy nhau để rồi đêm nằm cạnh chồng thở than cuộc tình
Ðêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không ?
Người ta thường nói “thương nhau bỏ chím làm mười, hay thương nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bù hòn cũng méo“, trái cau cũng được phân chia cho sự ghét thương
Thương nhau cau sáu bửa ba
Ghét nhau cau sáu bửa ra làm mười
Các hội hè đình đám trai tài gái sắc dùng đề tài trầu cau hát đối nhau hồn nhiên trong sáng, lời hát đối đáp ngọt ngào trong lễ giáo gia đình không sàm sở, nhưng vượt qua ảnh hưởng lâu đời của nho giáo “ Nam nử thụ thụ bất thân“
Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghiã cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn!
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn cho đây đãy duyên nào hợp duyên.
Hay là
Trầu nầy trầu quế, trầu hầu
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi lấy mình
Trầu nầy , trầu nghiã , trầu mình lấy nhau
Trầu nầy têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu nầy không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn
Hay là chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
Nữ sỉ Hồ Xuân Hương lận đận tình duyên, đời sống tình cảm kém may mắn, làm cho bà nghi ngờ màu xanh của lá trầu , màu trắng của vôi ( lạt như ốc bạc như vôi)
Qủa cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương đã quẹt vôi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Ðừng xanh như lá bạc như vôi
Tiếng hát ru con của mẹ hiền, đề cập đến trầu cau nhu cầu không thể thiếu trong những lần đi chợ,
Ru con con thét cho muồi
Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh
( Tùy theo mổi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )
Các cụ bà nhai trầu khó khăn, nên dùng cối đá nhỏ giả trầu, hay cái ống xoáy bằng đồng, có chià dài phần dưới 3 cái răng nhỏ, bỏ trầu cau vào đó xoáy nhỏ . Ăn trầu cũng có nghệ thuật, chọn lựa cau tươi vỏ mỏng ruột nhiều, trầu tươi kèm theo quế hay vỏ của loại cây chay, ăn kèm với cục thuốc lá nhỏ vôi phải màu hồng..
Trần Tú Xương thi hỏng mãi, bất mãn với đời nghe người ta chúc tết sống lâu hưởng phước lộc cho đến đầu bạc răng long. Làm thơ trào phúng
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu ra
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu
Ngày xưa đàn ông hay đàn bà thường bới tóc, họ quan niệm “cái răng cái tóc là vóc con người”, thời ấy hàm răng đen như huyền thì sang trọng quý phái. Nhưng vào thế kỷ thứ 19 .Văn hóa Tây phương du nhập vào Việt nam, đời sống văn minh thay đổi. Phong trào Duy Tân phát xuất từ Quảng nam (1905-1908) khởi đầu cuộc cách mạng khai trí dân sinh đã phá các hủ tục, kêu gọi đàn ông hớt tóc ngắn , cắt móng tay dài lá răm, mặc âu phục,
Mỹ phẩn nhập vào Việt Nam như son, phấn dầu thơm..giúp đàn bà trang đìểm cho nét đẹp, sống ở thành phố phần nhiều bỏ hẳn tục nhộm răng đen ăn trầu.. Bởi vậy khuynh hướng thay đổi qua thi ca ..
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
Ðời sống văn minh hơn, đàn ông ít mặc áo dài khăn đóng, hay khăn nhiễu bịt đầu được thay thế bộ Âu phục gọn gàn, khăn điều vắt vai đôi guốc gổ từ từ biến mất thay vào đó đôi giày da, thêm chiếc cà vạt xinh đẹp. Hàm răng của các nàng trắng đẹp như hạt bắp, môi son đỏ tươi nở nụ cười đẹp như hoa . Làm cho các chàng say đắm nên hỏi nàng rằng
Người (ai) về có nhớ ta chăng ?
Ta về ta nhớ hàm răng người cười
Ca dao được ca tụng trong dân gian hiện hữu trong đời sống của người dân Việt Chúng ta rời quê hương, cuộc sống bận rộn xứ người , khó tìm được lại kỷ niệm như những ngày sống tại quê nhà trong những buổi trưa hè,đêm trăng thanh gió mát, nghe tiếng hát ru con của mẹ hiền. Nhưng chắc rằng chúng ta nhiều mơ ước và còn nhớ những câu ca dao quen thuộc len lỏi vào hồn.
“ Mai về trồng lại hàng cau
Cho hồn dân tộc thâm sâu mái chùa”
Nguyễn Quý Ðại
1/ lượt truyện Trầu Cau theo Lĩnh nam chích quái ghi rằng:
ngày xưa gia đình họ CAO sinh đôi được hai người con trai đặc tên là Tân và Lang được gia đình gởi theo học người thầy giáo họ LƯU.
Nhà người thầy có một người con gái xinh đẹp gọi là Liên, Nàng thấy hai chàng đẹp trai chăm học đêm lòng yêu mến. và muốn lập gia đình với người anh, nhưng không thể phận biệt được vì hai người giống nhau..Một hôm Liên đem bát cháo và đôi đủa ra mời hai người, để thử xem ai là anh. Lang mời Tân ăn trước.( người em nhường cho anh. Liên nhận ra người anh nên xin thân phụ kết hôn với Tân)
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng người em là Lang cảm thấy buồn vì tình anh em bị san sẽ với Lang phần nào khi người anh lập gia đình sống riêng với hạnh phúc. Lang âm thầm bỏ nhà đi về quê. Ði mãi , Lang gặp một dòng suối lớn chận ngang phía trước. Lang ngồi buồn bên bờ suối khóc cho đến chết, rồi hóa ra một cây CAU. Tân thấy vắng em qúa lâu lên đường đi tìm em. Ðến bên bờ suối thấy xác em, Tân thương em, và nghĩ rằng vì mình xảy ra việc nầy nên liền đập đầu vào cây CAU để chết hóa thành Tảng Ðá vôi, người vợ thấy chồng đi tìm em không trỡ về. lại đi tìm chồng gặp xác chồng bên bờ suối cạnh cây CAU , Liên vật mình vào tảng đá từ trần rồi hóa thành Dây trầu , bám vào Tảng đá leo lên Cây cau.
Thân phụ của bà Liên xúc động trước tình cảm thiên liêng, cho lập miếu thờ ba người đã ra đi trong Tình yêu và Ðạo nghiã làm người. Mãi cho đến một hôm vua Hùng Vương di qua xứ đó, ngồi bên bờ suối , thấy cây xanh lá mọc bên Tảng đá bu quanh cây .Liền hỏi người điạ phương biết được sự tích. sai người bổ qủa cau ,lấy một miếng nhai với trầu, và nhổ nước hổn hợp trầu cau lên tảng đá, bổng nhiên tảng đá vội có màu đỏ. Vua truyền mọi người lấy giống về trồng để dùng từ đó nước ta có tục ăn trầu
2/ Trần gia Phụng sđd Quảng nam trong lịch sử trang 21 .trích theo tài liệu trong mục Betelnut. Encyclopaedia Britannica q.3 trang 551 USA 1972
3/ Giữa chốn cung vàng của Thích Như Ðiển trang 169