Tính Chất Bất Hợp Pháp Của Hiến Pháp Việt Nam Hiện Nay

Phân Tích Dựa Trên Giá trị Pháp Lý của Hiến Pháp 1946

Luật sư Nguyễn Xuân Phước
Tiến Sĩ Luật Khoa Hoa Kỳ

*

Lời Nói Đầu

Diễn Đàn Hiến Pháp là tập họp những bài viết của các tác giả khác nhau về vấn đề Hiến Pháp Việt Nam nói chung, về khủng hoảng của nó hiện nay , và về những phương pháp giải quyết khủng hoảng nầy nhằm tháo gở cơ chế nhà nước Cộng Sản. Vì đây là một diễn đàn, do đó các tác giả có thể có những cách nhìn và cách ly luận khác nhau. Mọi người đều có thể tham gia trình bày quan điểm của mình và phê bình các lập luận của các tác giả đó trong tinh thần xây dựng.

Bài viết nầy có mục đích trình bày những nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ pháp trị. Đồng thời nếu chúng ta giả thiết là hiến pháp 1946 là một hiến pháp có giá tri, thì chúng ta có thể chứng minh được rằng thủ tục ban tiến hành hiến pháp 1959 và các hiến pháp sau đó hoàn hoàn bất hợp hiến vì chúng không tuân thủ theo qui định của hiến pháp 1946. Hệ quả tất nhiên là những điều khoản trong hiến pháp hiện nay liên quan đến vai trò độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng Sản hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Vì lẽ đó, nhà nước và đảng Cộng Sản không thể kéo dài vai trò lãnh đạo đất nước trong tình trạng “thượng bất chính” của bất hợp hiến, bất hợp pháp và không chính thống. Đó là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất hiện nay.

I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp

Dưới chế độ dân chủ hiến pháp là luật pháp tối cao của quốc gia. Nó qui định nguyên tắc tổ chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định và hợp pháp của nhà cầm quyền.

Theo quan điểm dân ước của J.J. Rousseau, [1] hiến pháp là một hợp đồng giữa quốc dân và nhà nước.  Như đảng Cộng Sản luôn luôn thừa nhận, một bên là nhân dân là chủ nhân của đất nước, và một bên là nhà nước là người được nhân dân mướn để quản trị đất nước, là đầy tớ của nhân dân.

Trên nguyên tắc của pháp luật hợp đồng thì  người làm mướn không bao giờ có quyền tự ý thay đổi hợp đồng, nhất là việc thay đổi hợp đồng có mục đích loại bỏ quyền làm chủ của chủ nhân. Và không bao giờ có chuyện nghịch lý là chủ nhân tự ý bỏ quyền làm chủ của mình để trở thành đầy tớ.  Nếu điều này có xảy ra thì nó chỉ có thể thực hiện được bằng áp đặt.

Trong trường hợp người làm mướn tự động sửa hợp đồng không có sự đồng ý của chủ nhân hợp đồng bị sủa chữa lập tức trở nên vô giá trị.  Nguyên tắc nầy bác khước mọi lý do biện minh, kể cả các lý do kiểu: đảng phải lãnh đạo cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, đảng phải lãnh đạo đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường xã hội chủ nghĩa v.v…; hay hy sinh chính tài sản của mình, như Tổng bí thư Đổ Mười phải miễn cưỡng tặng quần chúng 1 triệu đô; hay ngay cả mạng sống của mình, như những người đã tin tưởng tuyệt đối và đã hy sinh cho lý tưởng Cộng Sản.

Đó là lý do hiến pháp luôn luôn phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định trực tiếp bằng lá phiếu. Hiến pháp gọi đó là quyền phúc quyết hiến pháp của nhân dân. Quyền phúc quyết hiến pháp cộng với các quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến pháp hay đưọc tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành xử quyền làm chủ đất nước của mình.

II. Sự Ra Đời Của Hiến Pháp 1946

Hiến pháp 1946 là hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam sau 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Do cuộc tranh chấp Quốc-Cộng xảy ra sau đó, trong quần chúng có hai dư luận đối nghịch nhau về giá trị của hiến pháp 1946. Một bên cho rằng hiến pháp 1946 không có gia trị, và một bên cho rằng hiến pháp nầy có giá trị. Đứng trên ly luận hiến pháp chúng ta không cần đi vào tranh luận nầy. Để tiện cho việc lý luận chứng minh, ở đây chúng ta giả thiết là hiến pháp 1946 có giá trị , và sẽ đứng trên quan điểm của những người cho rằng hiến pháp 1946 có giá trị để đánh giá hiến pháp hiện nay.

Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu tương đối tự do, và sau đó quốc hội được bổ xung thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp. Nó tổng hợp được nhiều thành phần xã hội và đảng phái dân tộc. Quốc hội đầu tiên này ngoài các nhà cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi như Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Trần Trung Dung vv… [2] [3] [4] . Ban dự thảo hiến pháp đã được Quốc Hội thành lập gồm 11 người, thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.

Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội  Việt nam đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.

Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt nam (điều 16). Nó qui định rõ ràng sự phân quyền và độc lập của ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp. Và quan trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]

Tất nhiên hiến pháp 1946 không phải là một hiến pháp toàn hao. Nó cần phải được bổ xung và tu chính để gia tăng khả năng ngăn chặn những áp chế của nhà nước đối với nhân dân. Nhưng trong hoàn cảnh ngặt nghèo của đất nước, hiến pháp 1946 đã ra đời bằng một thủ tục tương đối dân chủ với sự tham gia của mọi phe phái chính trị và tầng lớp nhân dân. Đặc biệt nó chứa đựng những quyền công dân, và quyền làm người phổ quát được các quốc gia dân chủ pháp trị trên thế giới công nhận.

Lịch sử cho thấy hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý sản sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tồn tại cho đến ngày hôm nay. Vì cuộc kháng chiến bùng nổ chỉ có 10 ngày sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động trong nước. [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được nhà nước ban hành.

Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:

Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.  Nó là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện. [6]

Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền đương thời. Đồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nươc

Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.

III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và
Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa

Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Và trên tinh thần đó, chúng ta thử tìm hiểu những hiến pháp về sau có giá trị hợp pháp và hợp lý hay không. Công việc này đòi hỏi chúng ta trước hết phải xét lại điều khoản liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp qui định trong hiến pháp 1946.

Điều 70 của Hiến Pháp 1946 viết rằng:

Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.”

Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm 1960, 1980 và 1992.

Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa bản hiến pháp 1946, như sau:

“Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi.  Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi”.

Tài liệu này viết tiếp:

“Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để tòan dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong 4 tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia.

Sau cùng tài liệu thượng dẫn kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau:

“Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi.  Ngày 31-12-1959, quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]

Các sự kiện kể trên cho thấy, thứ nhất, nhà nước tự động tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã “hoàn thành sứ mệnh” của nó mà không nói rõ ràng thế nào là “sứ mệnh của hiến pháp” và thế nào là “hoàn thành”. Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định “sứ mệnh của hiến pháp” và ấn định rằng khi hiến pháp “hoàn thành” sứ mệnh của nó thì giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dưt. Tự bản chất hiến pháp không có sứ mệnh gì cả. Nó chỉ là bản đúc kết giao ước giữa nhà nước và nhân dân thành một hợp đồng có giá trị.  Nó qui định quyền lợi và trách nhiệm của nhà nước và của nhân dân. Nó qui định sứ mệnh cho nhà nước, chứ nhà nước không qui định sứ mệnh cho nó. Theo đó, sứ mệnh  của nước là phải bảo vệ nhân quyền và dân quyền của nhân dân. Thế nhưng thay vì tiếp tục thực thi hiến pháp 1946 đảng Cộng Sản đã vô căn cứ gán cho hiến pháp ấy một sứ mệnh để rồi đột ngột tuyên bố sứ mệnh kia đã xong, đột ngột khai tử hiến pháp 1946.

Thay vì thảo luận một cách hoang tưởng về sứ mệnh của hiến pháp 1946, chúng ta hãy xét xem nhà nước có hoàn thành sứ mệnh mà Hiến pháp 1946 giao phó hay không.

Lịch sử cho thấy nhà nước đã không thực hiện đúng theo sứ mệnh mà hiến pháp giao phó.  Đối với những qui định của hiến pháp  về quyền bình đẳng  kinh tế, chính trị, và văn hoá ghi trong hiến pháp 1946, thay vì phải được nhà nước bảo vệ và tôn trọng, thì đã được nhà nước chà đạp triệt để.  Về tự do kinh tế thì có vụ án cải cách ruộng đất, phong trào đấu tố chủ tô, quyền tư hữu của nhân dân đã bị tướt đoat. Về tự do văn hoá thì có vụ án Giai Phẩm Nhân Văn, trong đó những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ yêu nước đã bị trù dập, tù đày. Các tác phẩm của họ bị cấm lưu hành. Về tự do chính trị thì mặc dầu có hai đảng Xã Hội và Dân Chủ, nhưng chỉ để làm cảnh không bao giờ có tiếng nói đối nghịch lại đảng Cộng Sản, và tất cả những người khác chính kiến đều bị giam giữ, thủ tiêu không cần án lệnh, hay họ phải bỏ trốn qua Trung Hoa, hay vào miền nam.

Nhà nước không thể nhân danh độc lập và thống nhất để chà đạp nhân quyền và dân quyền. Thực hiện sứ mệnh bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ tất yếu của nhà nước. Nhiệm vụ đó có mục đích tối hậu là bảo vệ nhân quyền và dân quyền cho nhân dân trong một quốc gia độc lập và thống nhất.

Như thế thì nhà nước đã thất bại trong sứ mệnh thực thi hiến pháp để bảo vệ nhân quyền và dân quyền của công dân. Làm sao đảng có thể đưa ra luận cứ rằng hiến pháp đã làm xong sứ mệnh của nó ?

Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo do gian ý của nhà cầm quyền Cộng Sản. Hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.

Thứ hai, vì nhà nước đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ yêu cầu của hiến pháp. Thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Đảng Cộng Sản đã chứng tỏ sự ra đời của hiến pháp 1959 đã không theo đúng nguyên tắc qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết.

Ở đây khi thay đổi hiến pháp, nhà cầm quyền đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân. Việc đem dự thảo hiến pháp ra cho “tòan dân” thảo luận và đóng góp ý kiến “một cách sôi nổi là một thủ tục tốt”, nhưng hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và đóng góp ý kiến một cách sôi nổi. Hiến pháp 1946 đòi hỏi nhân dân phải có quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp. Thủ tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn dân. [8]

Như vậy, đây là trường hợp người làm mướn tự ý thay đổi hợp đồng. Sau đó người làm mướn đã tự động loại trừ chủ nhân ra khỏi vai trò của chủ nhân ông của đất nước. Các Hiến pháp từ năm 1959 trở đi đã bỏ hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân trong thủ tục thay đổi hiến pháp. Vì như đã nói ở trên, quyền phúc quyết hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân, do đó, khi nhân dân không còn quyền phúc quyết hiến pháp, thì quyền làm chủ đất nước đã bị đã bị tướt đoạt. Chủ nhân ông của đất nước đã bị mất cắp bằng khoán là từ đây.

Và từ đó, trên đất nước Việt Nam mới xuất hiện cụm từ “nhờ ơn bác và đảng” [9] trong mọi sinh hoạt đời sống. Cụm từ ⮨ờ ơn bác và đảng” nói lên được nỗi run sợ của chủ nhân bị mất quyền làm chủ đất nước trước những ông đầy tớ đã trở thành ông trời, đầy uy quyền sinh sát, đứng lên trên luật pháp.

Vì sự thể điều 70 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp, vì sự thể lý do sửa đỏi hiến pháp có tính chất ngụy tạo, vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy, chúng ta có thể khẳng định rằng, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và  tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Do đó, các hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp pháp và chính thống của nhà cầm quyền.

Hệ luận tất yếu của lý luận trên là tất cả các điều khoản của hiến pháp hiện nay liên quan đến quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản (như điều 4 hiến pháp 1992 và hiến pháp 1980) đều hoàn toàn vô giá trị.

IV. Khủng Hoảng Hiến Pháp và Ý Nghĩa Của Sự Thay Đổi Hiến Pháp

Hiên tượng phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt nam bùng dậy như lửa rừng gần đây đã nói lên được tình trạng khủng hoảng hiến pháp dưới chế độ Cộng sản. Nguyên chính của khủng hoảng nầy, như đã trình bày ở trên, là do sự không hợp hiến của hiến pháp kế thừa khiến cho hiến pháp hiện nay không có giá trị pháp lý, chính thống để chứng minh cho vai trò lãnh đạo của chế độ hiện nay.

Trong những bài viết  ở trong nước gởi ra điều đáng để ý là các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ đã xử dụng lý luận hiến pháp (constitutional argument) để tranh luận với công an và nhà nước Cộng Sản. Xử dụng lý luận hiến pháp là một trong những dấu hiệu cho thấy sự trưởng thành về dân chủ của nhân dân. Đó là phản ứng tự nhiên khi người dân ý thức được quyền lợi của một chủ nhân ông bị đầy tớ gạt gẫm đánh cắp bằng khoán làm chủ đất nước và quyền tự do dân chủ. Giờ đây người chủ nhân đau khổ nầy đem tờ hợp đồng ra, chỉ vào mặt người đầy tớ, và nói với y rằng: “mầy gạt tao”. Sự trưởng thành về dân chủ là điều kiện ắt có trong sự tái lập nên dân chủ pháp trị.

Lý luận hiến pháp xuất hiện sớm nhất có lẽ là bài diễn văn của Luật Sư Nguyễn Mạnh Tưòng tại quốc hội năm 1956 tố cáo sự vi hiến của nhà cầm quyền Cộng Sản trong vụ án Cải Cách Ruộng Đất. Những bài viết của GS Đòan Viết Hoạt trên Diễn Đàn Tự Do, BS Nguyễn Đan Quế trong Cao Trào Nhân Bản, và những bài viết gần đây của Trung Tướng Trần Độ, TS Nguyễn Thanh Giang, PTS Hà Sĩ Phu, Ô Hoàng Minh Chính, các cán bộ Cộng Sản lão thành như Vũ Cao Quận, Lê Hồng Hà, GS Trần Khuê, anh Lê Chí Quang v.v.. cùng các đơn, kiến nghị của các nhà dân chủ bàng bạc các lý luận hiến pháp càng ngày càng sắc bén, và lần lượt bẽ gảy các ngụy biện của công an và tòa án Cộng Sản.

Đứng trước cao trào nhân dân đòi thực thi hiến pháp, Đảng Cộng Sản đã phải bàn tới việc thay đổi hiến pháp. Gần đây, Ông Nguyễn Đình Lộc, bộ trưởng tư pháp nhà nước CSVN trong cuộc thảo luận với Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về vấn đề thay đổi hiến pháp, đã nhận định rằng Quốc Hội Việt Nam cần xem xét lại năm chương đầu của hiến pháp 1992. Lý do năm chương này dùng toàn thuật ngữ của thời bao cấp. (Báo Kinh Tế Sài Gòn ngày 10 tháng 7 năm 2001).

Quan trọng hơn là bài viết “Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp” của Luật Sư Nguyễn Văn Thảo đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng 6-2001. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã có những nhận định rất khách quan về hiện tình khó khăn của hiến pháp hiện nay, nhưng rất tiếc luật sư Thảo đã không bàn đến tính chất bất hợp pháp của nó. Điều đáng chú ý là Luật Sư Thảo nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 như sau:

“Thực tiển nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):

  • Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
  • Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiếnpháp 1959, 1980, 1992)

Trong hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực tiếp vào việc thông qua hiến pháp.

Công thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp.” [10]

Nhận thức trên đây là một nhận thức đúng đắn và khách quan. Một thủ tục soạn thảo hiến pháp mà “công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp” xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Đó là trường hợp ra đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Với lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn khéo léo nhắn nhủ với người đọc rằng hiến pháp hiện nay hoàn toàn không có tính chất dân chủ, và do đó không có giá trị pháp lý.

Lịch sử cho thấy việc thay đổi hiến pháp đối với Đảng Cộng Sản là một thủ đoạn để củng cố “nền chuyên chính vô sản”. Hay nói theo ngôn ngữ trong thời kỳ “đổi mới⢠hiện nay là để củng cố “nền chuyên chính tư bản” Lịch sử cũng cho thấy từ buổi bình minh của nền độc lập, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chưa bao giờ bày tỏ thái độ nghiêm chỉnh với nhân dân trong việc thực hiện hợp đồng nhằm bảo vệ nhân quyền và dân quyền. Đó là lý do để xuất hiện hàng loạt các hiến pháp không có giá trị pháp lý. Trong bối cảnh Việt Nam đang bị tác động bởi những giá trị nhân quyền trước cơn lốc toàn cầu hóa và ý thức dân chủ pháp trị ngày càng trưởng thành của nhân dân, đảng Cộng Sản không thể tiếp tục thái độ không nghiêm chỉnh ấy để lãnh đạo đất nước.

Đảng Cộng Sản không nhận thức được rằng khi Đảng tướt đoạt quyền làm chủ đất nưóc của nhân dân, qua sự loại bỏ các quyền căn bản như quyền bình đẳng kinh tế, chính trị, văn hoá, quyền bình đẳng cơ hội, quyền tự do ứng cử và bầu cử và quyền phúc quyết hiến pháp, thì hiến pháp đã mất đi tính chất chính thống của nền dân chủ pháp trị (rule of law). Hiến pháp không còn là hợp đồng có giá trị pháp lý giữa nhân dân và nhà nước. Nó chỉ là công cụ của nhà nước cai trị theo pháp quyền (rule by law) mà trong đó nhà nước đứng trên pháp luật và  nhân dân là nạn nhân của nó. [11]. Đồng thời những giá trị thiêng liêng cao quí của chính khí Việt thể hiện qua cuộc Cách Mạng chống Pháp đã tan biến vào biển máu từ những vụ Cải Cách Ruộng Đất, đấu tố để tước đoạt quyền tư hữu nhân dân, đến vụ án Nhân Văn giai Phẩm, những vụ đàn áp thủ tiêu đối lập chính trị, phong trào đánh tư sản mại bản, đổi tiền, tù cải tạo, và sự thể tôn giáo bị bách hại, sự thể hàng triệu người bỏ nước ra đi v.v.. và đến những bất công oan khiên của vô số người dân thấp cổ bé miệng.

V. Kết Luận

Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề hiện nay không phải là vấn đề thay đổi năm chương đầu của hiến pháp. Vấn đề hiện nay là các hiến pháp 1959, 1980 và 1992 của nhà nước Cộng Sản ban hành đã được chứng minh là hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định định giá trị pháp lý của nhà nước, do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.

Khổng Tử viết: “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Trong thời đại dân chủ, một nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp “thượng bất chính” nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp “thượng bất chính” và nó sẽ dẫn tới một kịch bản “hạắc loạn”, như là một hệ quả tất nhiên. Đó là hiện trạng của vấn đề khủng hoảng hiến pháp hiện nay.

Chúng ta có thể nhận định được ngay là vấn đề giải quyết khủng hoảng hiến pháp hiện nay là đầu mối để tháo gở chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Nổ lực giải quyết hiến pháp của toàn dân, cộng với những yêu cầu nhân quyền của bảng thương ước Việt Mỹ, sẽ giúp nhân dân Việt nam nhanh chóng tiễn đưa đảng Cộng Sản vào nơi yên nghĩ cuối cùng của lịch sử, cùng với các đảng anh em ở khắp nơi trên thế giới.

Có như vậy nhân dân Việt mới có thể đưa đất nước vào nền dân chủ pháp trị, lấy đó làm nền tảng cho sự hồi sinh dân tộc và phát triển đất nước ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói và lạc hậu do chính chế độ Cộng Sản gây nên.

Đó cũng là ý nghĩa của “Vạn Thắng” của cuộc cách mạng thời đại 2000.

“Họ sẽ thắng hết những thất bại của lịch sử và tâm thân
Họ sẽ thắng hết nợ và nhục
Họ sẽ thắng vũ trụ và loài người
Những người 2000 Vạn Thắng.”
 [12]

Chúng ta luôn luôn ghi nhớ rằng bất cứ một cuộc cách mạng nào, chính trị hay quân sư, cuối cùng cũng phải quay trở về với vấn đề hiến pháp. Mọi chế độ tư xưng là dân chủ phải xây dựﮧ đất nước và chính thể trên nền tảng của một bản hiến pháp theo nguyên tắc và tinh thần dân chủ pháp trị như đã trình bày ở trên. Như thế nhà cầm quyền tân lập mới có thể có được tính chất hợp pháp và chính thống để lãnh đạo đất nước. Nếu không, đất nước Việt Nam lại phải đương đầu với những thế lực độc tài mới.

Nguyễn Xuân Phước
8/8/2001

[1] Jean Jacque Rousseau, Social Contract, lưu trữ ở http://books.mirror.org/gb.rousseau.html

[2] Nguyễn Xuân Chữ, “Hồi Ký Nguyễn Xuân Chư”������o Nguyễn Xuân Phát và Chính Đạo hiệu đính, Văn Hoá, Houston ấn hành 1996. trang 301-310

[3] Chú thích của Người Viết: “Các tài liệu lịch sử về cuộc bầu quốc hội và danh sách quốc hộ⩠rất là thiếu sót. Tôi rất mong được các nhà sử học trong nước và ngoài nước góp thêm ý kiến và sử liệu.

[4] Nguyễn Lý Tưởng, Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 77, Tác giả Xuất Bản Hoa Kỳ 2001

[5] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946, http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html

[6] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946, http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html

[7] Hoàn Cảnh Ra Đời và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1959 http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp59.html

[8] Nguyễn Văn Thảo, “Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp”, Tạp Chí Cộng Sãn tháng 6-2001 http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm

[9] Lời chú thích của người viết: người dân miền bắc luôn luôn phải nói “nhờ ơn bác và đảng” trong mọi đối thoại. Chúng ta có thể xem những tài liệu đối thoại giữa ông Hồ Chí Minh và giới lãnh đạo với nhân dân trong báo chí của đảng, hoặc đọc các truyện xuất hiện trong chế độ Cộng Sản. Có thể đọc thêm Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ thư Hiên. Và có thể hỏi bất cứ một người nào đã lớn lên trong chế độ về ngôn ngữ XHCN.

[10] Nguyễn Văn Thảo, Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp, Tạp Chí Cộng Sản tháng 6-2001, http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm

[11] Đổ Thái Nhiên, Dân Chủ Pháp Trị và Dân Chủ Pháp Quyền, bản thảo. Trong tập tài liệu này Luật Sư Đổ Thái Nhiên đã phân tích sâu sắc sự khác biệt giữa pháp quyền và pháp trị.

[12] Thái Dịch Lý Đông A, Huyết Hoa, trang 139, Gió Đáy Xuất Bản 1967, lưu trữ ở http://tutuongviet.com

Back to top button