Theo bước chân người linh mục

Trần Trung Ðạo

Kính tặng Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ

 

Tôi là người Phật Tử nhưng phải thú nhận rằng ít khi tôi ngồi nghe hết một bài thuyết pháp của các chư tôn đức Phật Giáo, ngay cả khi bổn sư tôi còn tại thế. Kính thầy, đúng ra là sợ thầy lắm tôi mới ngồi năm mười phút rồi kiếm chuyện mà đi. Không phải các thầy tôi giảng không hay, không cao siêu sâu sắc, nhưng bởi vì lòng tôi còn quá nhiều vọng động, mấy mươi năm chưa có một ngày yên. Thân trú tại chùa mà tâm thì trôi lang thang trên nhánh sông đời với trăm bến bờ xuôi ngược.

Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Trung, chinh chiến triền miên và thiên tai dồn dập. Tuổi thơ tôi được ru bằng tiếng súng đêm đêm vọng về bên kia sông Thu Bồn. Mỗi buổi sáng trên con đường ra quận đều có người khiêng xác chết đi qua và khiêng xác chết đi về. Ngày đó, tôi quá nhỏ để có một ý niệm rõ ràng về Quốc Gia hay Cộng Sản nhưng có một điều tôi biết chắc họ là người Việt Nam. Tôi từng chứng kiến cảnh người anh họ là lính nghĩa quân, đào huyệt chôn một người em là du kích Cộng Sản, và chính anh họ tôi cũng ngã xuống sau đó vài ngày khi những người du kích khác về đặt mìn ngay giữa đường ra quận. Cả hai đều chết. Cô tôi chôn họ cạnh nhau trên một mảnh đất sau vườn để bà tiện bề hương khói. Mỗi đêm rằm nhìn qua cửa sổ, tôi thấy cô tôi khóc, chiếc bóng cô tôi rung rinh dưới ánh trăng tròn. Cỏ trên hai ngôi mộ đều xanh hơn, có lẽ vì thấm quá nhiều nước mắt của một bà mẹ Việt Nam bất hạnh.

Từ đó, những điều tôi cần biết không phải là sau khi tôi chết tôi sẽ đi về đâu, Thiên Đàng hay Cực Lạc? Tôi là ai và tôi sẽ là ai sau cõi đời nầy? Tôi tiếp tục làm người hay làm trâu ngựa? Là một người có niềm tin tôn giáo nhưng thú thật rất ít khi tôi nghĩ đến những điều, tôi cho là, xa xôi đó. Câu hỏi lớn nhất là tại sao đất nước tôi lại phải chịu đựng nhiều chết chóc khổ đau như thế. Tôi cũng không mơ ước gì to lớn, cao xa. Như một nhà nghèo cơm không có đủ ăn, áo không đủ mặc làm sao dám mơ nhà cao cửa rộng, giấc mơ của tôi vô cùng gần gũi và đơn giản, rằng máu Việt Nam đừng chảy nữa trên quê hương tôi đã quá nhiều thống khổ. Năm mười ba tuổi tôi từ giã quê nghèo ra đi. Tôi đi mang theo những câu hỏi, những ám ảnh triền miên về cuộc chiến và đất nước.

Mãi tới hôm nay sau nhiều năm lưu lạc tôi mới được nghe một bài pháp trọn vẹn từ đầu. Điều khác nhau duy nhất, bài pháp tôi nghe không phải do các thầy tôi giảng, nhưng do một vị Linh Mục Công Giáo mà tôi chưa hề quen biết: Cha Nguyễn Hữu Lễ. Đối với tôi, tôn giáo nào đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người thì tôn giáo đó là tôn giáo của tôi và bất cứ ai đeo đuổi mục tiêu đem lại an lạc, tự do, cơm áo cho đồng bào tôi người đó là Thầy tôi, là Cha tôi. Trong suốt hai giờ ngồi nghe Cha nói, tôi tự nhiên cảm thấy rằng tôi là một người cùng một đạo với Cha, đạo tình người, đạo dân tộc, đạo Việt Nam.

Cha Nguyễn Hữu Lễ nói với chúng tôi: “Trước khi làm một Linh Mục, tôi là một người Việt Nam”. Câu nói là một chân lý hiển nhiên và không có gì khó khăn để nói. Thế nhưng, không phải ai cũng nói được và làm được như Cha. “Trước khi là một Thượng Tọa tôi là người Việt Nam”, “Trước khi là một Giám Mục tôi là người Việt Nam”, “Trước khi là một Mục Sư tôi là người Việt Nam”, “Trước khi là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tôi là người Việt Nam”, “Trước khi là một người theo đạo Cao Đài, tôi là người Việt Nam”. Đức Giáo Hoàng cũng đã từng tuyên bố một câu tương tự rằng ngài sẵn sàng về lại Ba Lan để đấu tranh cho nhân quyền của đồng bào ngài khi nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan đe đọa đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan mà ngài ủng hộ tinh thần. Mang trọng trách lãnh đạo tinh thần của gần một tỉ người trên thế giới, câu nói của ngài chưa hẳn hàm chứa ý nghĩa một hành động nhưng là một cách để biểu hiện lòng yêu nước của ngài và đồng thời là một thách thức vô cùng lớn lao đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan.

Hơn bao giờ hết mỗi người Việt chúng ta phải biết đặt mình trọn vẹn trong ý nghĩa câu nói và thái độ cao cả của Đức Giáo Hoàng. Điều đó có nghĩa rằng, mỗi người Việt Nam phải biết đặt mình trong số phận của đất nước dù chúng ta đang ở bất cứ một cương vị nào trong xã hội hay trong tôn giáo. Hơn bao giờ hết, những người Việt Nam yêu thương đất nước mình phải biết nói lớn lên như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết sống vì đất nước như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết quý cái tổ mà chúng ta đã được ấp thành người như Cha Nguyễn Hữu Lễ, dù chiếc tổ đó làm bằng rơm rạ Việt Nam chứ không phải bằng nệm ấm chăn êm nước Mỹ, biết thương củ sắn cha trồng, củ khoai mẹ mót như Cha Nguyễn Hữu Lễ thay vì vong thân trong bơ sữa quê người.

Tôi đứng dậy ca ngợi Cha và xưng con với Cha bằng tất cả lòng kính yêu và kính trọng mặc dù như đã thưa, tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Chúng tôi không quen biết nhau và Cha cũng chẳng cần được ca ngợi. Ngày mai tôi sẽ trở về với đời sống của một chuyên viên kỹ thuật lo đi làm kiếm cơm nuôi vợ nuôi con và Cha sẽ về lại xứ Tân Tây Lan xa xôi ngàn dặm. Hai bờ đại dương cách trở, biết Cha còn có dịp trở lại nơi đây nữa hay không. Dù mai đây tôi có thể không còn cơ hội gặp lại Cha, nhưng viên than hồng mà Cha đã nhuốm lên trong lòng tôi chắc sẽ còn ấm mãi.

Cha Nguyễn Hữu Lễ kể lại một câu chuyện mà Cha đã thưa với Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ của Phật Giáo Việt Nam: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có Đạo. Chúng ta có Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành nhưng trong quá khứ chúng ta chẳng những không biết giữ gìn ơn phước mà Thượng Đế ban cho, trái lại tự mình cứa da thịt của mình. Tôi mong rằng những điều đó sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa”. Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ tuy không nói ra nhưng người nghe có thể hiểu ngay là Cha muốn nhắc những xung khắc tôn giáo bắt đầu từ chính biến 1963. Cám ơn Cha đã nhắc. Tôi không nghĩ Cha cho đó là xung đột giữa hai tôn giáo. Tôi cũng thế. Ngày đó tôi còn quá nhỏ để hiểu những gì xảy ra cho đất nước tuy nhiên tôi thành thật tin không có xung khắc tôn giáo tại Việt Nam nhưng đó chỉ là xung khắc giữa một số người, một nhóm người có quyền lực chính trị hay tinh thần trong giai đoạn mà ý thức dân chủ vừa thai nghén. Những xung đột phe nhóm, đặc biệt với sự khai thác tận tình của Cộng Sản, đã đẩy đất nước Việt Nam vào thảm họa rẽ chia và thù hận. Nhìn lại lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam, chúng ta ghi nhận rằng phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Phật Giáo được truyền vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc tức khoảng thế kỷ thứ hai tây lịch. Một số không ít các vị tổ Phật giáo là người Trung hoa hoặc theo ngã Trung hoa mà vào Việt Nam. Thiên Chúa Giáo được truyền vào Việt Nam nhiều nhất thời Tây thuộc. Tin Lành được xem là tôn giáo mới mẻ nhất và phát triển mạnh trong thời gian người Mỹ có mặt tại Việt Nam. Ảnh hưởng và vai trò của tôn giáo trong dòng phát triển văn hóa dân tộc cũng như trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước khác nhau tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử. Cũng như số phận đất nước, tôn giáo có khi thịnh khi suy nhưng sự hưng thịnh của một tôn giáo hay nói khác hơn là sự phát triển về số lượng và ảnh hưởng tinh thần của một tôn giáo nào đó chưa bao giờ trong lịch sử đã dẫn đến sự tiêu diệt một tôn giáo khác.

Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn dân như Quốc Sư Vạn Hạnh, Thiền Tổ Trúc Lâm, v.v… Hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử và còn là tổ sư của các Thiền tông lớn như thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chẳng hạn. Tuy giữ vị trí đặc biệt thời bấy giờ nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã hội như trường hợp các quốc gia Hồi giáo miền cận đông. Trái lại các tôn giáo khác vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội từ các triều đại phong kiến cho mãi tới ngày nay.

Trong lịch sử Việt Nam cận đại có xuất hiện thêm của nhiều tôn giáo khác như Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Tin Lành, v.v…Và mặc dù các biến động chính trị đã tạo ra một số ngộ nhận, các tôn giáo cũng đã tồn tại bên nhau với sự tương kính. Nhiều tôn giáo một thời gian đã võ trang quân đội như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, v.v… nhưng mục tiêu của việc võ trang là để chống Thực Dân và Cộng Sản chứ không phải nhằm chống lại các tôn giáo bạn hay để bành trướng tôn giáo mình qua con đường võ lực. Nhìn qua một số quốc gia như Ấn Độ, các nước vùng Trung Đông, Ái Nhĩ Lan,v.v… chúng ta thấy rằng sự thù địch tôn giáo tại các quốc gia nầy đã dẫn đến việc tàn sát nhau một cách dã man. Hiểu điều đó để thấy cái may mắn rất lớn cho dân tộc ta, mặc dù hoàn cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, các tôn giáo vẫn chưa hề có những tranh chấp nào đáng tiếc.

Chính biến năm 1963, như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ngầm nhắc nhở, cũng không phải là một xung đột tôn giáo, nhưng dù sao cũng đã làm thiệt hại lớn lao cho nền dân chủ trong giai đoạn phôi thai của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cùng trong lúc đó biến cố nầy lại là một chiến thắng lớn cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Biến cố chính trị của những năm đầu của thập niên 60 tại miền Nam, đã giúp cho CSVN từ một nhóm du kích vừa mới được khai sinh trong rừng núi thành một lực lượng bán công khai và hoạt động hữu hiệu ở thành phố.

Những cuộc đảo chánh, chỉnh lý để tranh quyền đoạt lợi giữa các tướng lãnh trong những năm sau đó đã giúp cho Cộng sản cơ hội vàng son để gầy dựng các cơ sở hạ tầng tại các trung tâm dân cư và đô thị. Căn nhà dân chủ tại miền Nam vừa mới xây dựng chưa được bao lâu đã phải bị tàn phá trước cơn bão lốc chính trị triền miên của thời đại. Số phận dân tộc Việt Nam giống như trái bóng tròn trên sân cỏ. Đây là một bài học lớn cho các thế hệ đang đấu tranh vì tự do dân chủ hiện nay cũng như cho các nhà lãnh đạo đất nước mai sau. Học quá khứ không phải để sống, để ngủ trên quá khứ nhưng để tránh những lỗi lầm, những vết xe đổ của quá khứ.

Tôi tin rằng những điều mà thế hệ tôi và các thế hệ em tôi muốn biết, ít ra trong lúc này, không phải là Đức Giám Mục Ngô Đình Thục là ai, Hòa Thượng Trí Quang là ai, ông Ngô Đình Nhu là ai, ông Ngô Đình Cẩn là ai. Điều chúng tôi muốn biết là bao giờ các em bé Việt Nam bất hạnh ở quê nhà có được một căn nhà để ở, một ngôi trường để học thay vì phải lê lết bụi bờ, ăn cơm thừa canh cặn trên các bến xe đò khắp ba miền nước Việt. Chúng tôi muốn biết những bà mẹ Việt Nam khổ nhọc bao giờ mới hết sắp hàng bán máu đổi gạo nuôi con tại các trung tâm hiến máu ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.

Chúng tôi muốn biết bao giờ những người chị Việt Nam mới hết đứng giữa công viên trong đêm ba mươi Tết để bán thân mình mua áo mới cho con.

Chúng tôi muốn biết bao giờ nước Việt được lấy tên ra khỏi danh sách những quốc gia nghèo nàn và chậm tiến nhất thế giới.

Tủi nhục biết bao nhiêu khi hàng năm chúng ta phải đọc trên báo cáo của cơ quan Liên Hiệp Quốc tên nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến nằm bên cạnh của các nước Phi Châu còn sinh sống trong thời kỳ bộ lạc. Hãy để việc giải thích các biến cố lịch sử lại cho các nhà sử học và đi làm những điều công ích cho đồng bào bất hạnh. Thay vì xát muối vào vết thương của dân tộc, xin đoàn kết nhau để cùng tranh đấu cho một đất nước tự do, dân chủ và thịnh vượng.

Một đất nước Việt Nam tương lai phải là căn nhà của mọi tôn giáo sống chung như một đại gia đình Việt Nam tương kính, thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Các tôn giáo sẽ là những cột kèo, sẽ là những mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức dân tộc thêm bền bỉ với thời gian và khi cần, sẽ cùng nhau chống đỡ sức công phá của văn hóa ngoại bang xâm lược. Cha Nguyễn Hữu Lễ nói khá nhiều về tuổi trẻ trong một hội trường mấy trăm người nhưng chỉ có hai người bạn trẻ. Chắc Cha chẳng mấy làm vui. Đi đây đi đó nhiều, hơn ai hết, Cha có lẽ cũng biết rằng tuổi trẻ hiếm hoi có mặt trong các buổi hội thảo chính trị của cộng đồng và các đoàn thể đấu tranh. Thỉnh thoảng lắm mới có vài cô chú trẻ nhiệt tình ráng đến, thì được xướng danh như là Tổng Hội Sinh Viên nầy, phong trào thanh niên nọ cho buổi hội thảo thêm phần trẻ trung, đa diện, chứ thật ra chưa chắc họ đã hiểu các chú các bác nói gì.

Lý do đơn giản bởi vì họ không sống cuộc đời các chú bác đã sống, không đi qua con đường mà các chú bác đã đi qua, và không học tại các trường mà các chú bác đã học. Các chú các bác thường đổ lỗi cho các bạn trẻ hay dị ứng với hai chữ chính trị, lơ là trước nỗi đau đất nước và nhiều chú bác còn đi hơi xa khi cho rằng con cháu mình đã bị Cộng Sản giật dây.

Tôi cũng đi rất nhiều, tham gia hàng chục trại hè, tâm tình với mấy chục hội sinh viên, trao đổi hàng ngàn thư điện toán (email) qua lại với các bạn trẻ, ăn ở với họ, hát hò với họ và khóc cười với họ. Tôi hiểu ra một điều rằng là tuổi trẻ không lơ là trước nỗi đau của đất nước, trái lại họ rất yêu đất nước Việt Nam, ngay cả nhiều em chưa một lần đặt chân đến. Tuổi trẻ cũng không dị ứng với các vấn đề chính trị và tuổi trẻ không thích chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Vấn đề khác biệt giữa hai thế hệ, vì thế, không nằm ở mục đích nhưng là phương pháp để giải quyết vấn nạn Việt Nam. Thành thật mà nói tôi không nghĩ các bạn trẻ hôm nay có thể đồng ý với các bậc cha mẹ, chú bác ngay cả trong định nghĩa căn bản của một vài danh từ quen thuộc như chính trị, dân chủ, tự do, đối thoại, tranh luận mà các bậc chú bác hay dùng.

Trong vài năm qua, tôi cũng có dịp tiếp xúc với các cộng đồng người Việt, học hỏi được rất nhiều từ các bác các chú, các bậc đàn anh. Tôi thương vết hằn trên trán cha và đau với niềm đau trong lòng mẹ. Tôi đã ngồi suốt đêm để nghe một bác HO kể lại cuộc đời tù ngục đầy đau xót của bác. Đời của bác HO mà tôi quen là một cuộc đời kiểu mẫu của một thanh niên Việt Nam sinh ra giữa thời chinh chiến, chịu đựng quá nhiều mất mát khổ đau. Hình ảnh của bác với mái tóc hoa râm, dáng người xiêu vẹo, đứng trên góc đường mỗi sáng chờ xe chở đi làm tiền mặt, chiều chở trả về chỗ cũ, ghé tiệm mua một bó rau rồi về lụi cụi nấu cơm ăn, đã nhiều lần làm tôi đau nhói. Lẽ ra giờ nầy, các chú các bác đang sống trên một quê hương thanh bình, bên con bên cháu, với một tâm hồn thảnh thơi lắng đọng của tuổi về chiều thay vì phải mang nỗi buồn đi lang thang trên xứ người xa lạ.

Tôi đã thức nhiều đêm để làm thơ thương xót một người lính già ngã xuống trên xa lộ 101 ở San Jose. Bác chết đi không một phát súng chào, không vợ không con, không có ngay cả một người họ hàng xa nhất. Sở cảnh sát không cho người quen của bác nhận xác về chôn cất. Bác nằm cô đơn lạnh lùng trong nhà xác bịnh viện hơn một tháng để chờ người vợ cũ từ Việt Nam đồng ý ký thư ủy nhiệm cho bạn bè bác quyền nhận xác về chôn.

Bất cứ ai trải qua con đường mà các chú các bác đã phải đi qua đều không tránh khỏi mang theo trong lòng những hờn căm u uất đó. Nỗi đau của các chú các bác là nỗi đau chung của dân tộc. Tuy nhiên, với tất cả sự khiêm cung và kính trọng, tôi xin thưa tôi rất đồng ý với Cha Nguyễn Hữu Lễ khi ngài cho rằng lực lượng chính để giải phóng đất nước ra khỏi xích xiềng Cộng Sản hiện nay và đưa đất nước lên ngang tầm thiên niên kỷ không phải là các cha các chú nhưng là tuổi trẻ Việt Nam.

Sau hơn 25 năm lưu vong, một thế hệ trẻ Việt Nam tài ba về mọi lãnh vực đã hình thành tại hải ngoại. Không phải vài trăm, vài ngàn nhưng có thể lên đến hàng mấy trăm ngàn. Các trường đại học lớn của Mỹ như Harvard, MIT không cho phép sinh viên Việt Nam miễn điểm và hưởng đặc quyền thiểu số vì họ quá giỏi. Sinh viên Việt Nam thường được xếp ngang hàng với sinh viên da trắng xuất sắc, và dĩ nhiên bỏ xa sinh viên thuộc các dân tộc khác. Trong muôn vạn điều buồn, ít ra chúng ta còn có một niềm vui.

Tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại, mặc dù, là những chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật được cưng chìu trong xã hội Mỹ, hưởng thụ một đời sống trung lưu hay cao hơn nhưng trong đáy tâm hồn họ dải đất hình cong chữ S Việt Nam vẫn đậm đà soi bóng.

Giới trí thức trẻ Việt Nam tại hải ngoại là những người yêu nước cô đơn, đứng bên nầy giòng sông sâu chia rẽ, phân hóa trong cộng đồng người Việt và các thế hệ cha anh. Nhiều trong số họ đã cố đến với cộng đồng, với sinh hoạt Việt Nam để mong góp một bàn tay xây dựng cộng đồng người Việt và yểm trợ cho các phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ của đồng bào trong nước nhưng cuối cùng cũng phải bó tay trước những ngăn cách quá sâu và những hiện tượng tiêu cực quá nhiều trong cộng đồng người Việt. Nhiều trong số các bạn trẻ đó đã bỏ cộng đồng mà đi.

Xin hãy đến với tuổi trẻ và giao cho họ trách nhiệm cứu lấy đất nước và dựng xây đất nước.

Xin đặt những nhu cầu của đất nước lên trên nỗi đau riêng của mỗi chúng ta.

Xin hãy nhìn xa hơn vào tương lai đất nước để thấy những nhu cầu của đất nước không phải chỉ để thỏa mãn những oan ức của thế hệ hôm nay mà thôi nhưng còn là trách nhiệm đối với an nguy của dân tộc trong hàng ngàn năm tới. Xin đừng bắt tuổi trẻ phải hô những khẩu hiệu mà họ hoàn toàn không hiểu gì về nội dung, thay vào đó, hãy đến và nói với họ bằng ngôn ngữ thời đại họ, trao cho họ con tim, tặng cho họ tấm lòng để họ làm hành trang trên hành trình dân chủ hóa đất nước.

Tuổi trẻ cũng sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đen tối của đất nước, do đó, họ cũng có những khó khăn riêng của thế hệ họ về ngôn ngữ, về giáo dục và cả về văn hóa. Xin hãy thông cảm với những khó khăn mà tuổi trẻ phải đương đầu. Hãy đi và sống với tuổi trẻ để thấy rằng họ đáng thương và đáng quý hơn chú bác cha anh đang nghĩ về họ. Và nhất là, xin đừng quên phía sau bụi cây, những con chồn, con cáo khôn lanh quỷ quyệt đang chờ đón tuổi trẻ Việt Nam như đang chờ những miếng mồi ngon. Đừng bao giờ ném họ và tài năng của họ vào nanh vuốt kẻ thù.

Tôi ngồi viết bài nầy nhưng lòng miên man nghĩ đến Cha Nguyễn Hữu Lễ. Hôm qua đọc báo nghe tin Cha đi đây đi đó vận động cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo. Xin cầu mong ngài luôn mạnh khỏe và cám ơn Mẹ Việt Nam vẫn còn có những người con hiếu thảo đang nặng lòng cùng đất nước. Nhờ những hy sinh đó, những tấm lòng đó mà “non nước sẽ ngàn thu” như Thượng Tướng Trần Quang Khải dặn dò sau khi ngài cầm quân từ Thanh Hóa về giải phóng Thăng Long gần một ngàn năm trước. Tôi ngồi viết bài nầy trong lúc quê tôi đang trong mùa lụt lớn. Quê hương miền Trung của tôi vốn đã nghèo chắc sẽ nghèo hơn. Những bản tin xé lòng đứt ruột được gởi ra nước ngoài từ nửa vòng trái đất. Một gia đình ở Huế cột chung nhau chặt để hoặc cùng sống với nhau hay nếu phải chết họ sẽ chết bên nhau. Cả gia đình cuối cùng đã chết bên nhau. Một bà mẹ Quảng Trị phải buông tay theo giòng nước để con mình khỏi phải bận tâm và lo tìm đường sống. Một người cha Quảng Nam bám trên ngọn cây nhìn căn nhà tranh của mình sụp cuốn theo vợ và ba đứa con thơ. Đất miền Trung, đất của đau thương và nghèo khó, đất của bão lụt thiên tai. Người miền Trung, những con người yêu đất, những con người, qua bao nhiêu thế hệ, dù đói khát cam go, dù gian lao vất vả, vẫn không chịu bỏ đi, vẫn cố bám lấy nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Người miền Trung, sống với tình yêu đất và tháng 11 năm 1999, 570 người con của miền Trung nước Việt đã chết trên mảnh đất hiển linh và đầy thống khổ Việt Nam. Thân xác của 570 đồng bào ruột thịt đã trở về với lòng đất mẹ.

Đêm nay, từ vùng đất tạm dung nước Mỹ, tôi ngồi một mình trong phòng vắng, ngưỡng vọng về quê hương xứ Việt xa xôi, thắp nén hương lòng tưởng niệm đồng bào tử nạn. Xin cầu nguyện cho hương linh đồng bào được yên nghỉ trong cõi bình an miên viễn, giữa hồn thiêng sông núi và trong tình thương của tổ tiên giòng giống Lạc Hồng.

Dù cuộc sống nơi xứ người còn đầy gian lao vất vả nhưng tôi không bao giờ quên giọt nước mắt mà tôi đang nhỏ xuống trên quê người lận đận đêm nay là nước mắt Việt Nam. Nước mắt của tôi xin hòa chung với nước mắt của hàng triệu đồng bào thống khổ ở quê hương, xin hòa chung với nước sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vệ để làm xanh thêm cây cỏ và cho quê hương sớm được hồi sinh.

Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho những đồng bào còn sống sót sau trận bão lụt vừa qua để họ sớm có được chén cơm để ăn, căn nhà để ở, sớm có cơ hội gầy dựng lại cuộc đời sau vô vàn mất mát.

Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho dân tộc Việt Nam sớm có một ngày được sống trong tự do, được thở không khí thanh bình, qua đi thời đại của độc tài, hận thù, rẽ chia, ghen ghét, xin phò hộ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được sống trong dân chủ, tự do, no ấm, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button