Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến
Tưởng Năng Tiến

SUY TÀN VÀ HỦY DIỆT
Che đậy một sự thực hiển nhiên, chứng tỏ sự bất lực của mình.
Và từ chối một sự thực hiển nhiên cũng đồng nghĩa với tự hủy.
Tuệ Sỹ (“Sự Biến Lương Sơn” – 2003)
Trong mấy trang sổ tay trước, khi đề cập đến vấn đề “Gươm Giáo Và Tôn Giáo”, tôi có ghi lại một mẩu đối thoại ngăn ngắn – như sau:
– Thưa cha con muốn xưng tội.
– …..
– Trước năm 75, có mấy nguời cán bộ cộng sản nằm vùng bị truy lùng đến xin tá túc, và con có chứa họ dưới hầm nhà …
– Giúp đỡ tha nhân khi họ kêu cứu trong lúc bị hiểm nguy không phải là một cái tội.
– Nhưng thưa cha…
– Con cứ yên tâm ra về. Điều con làm hoàn toàn hợp với tinh thần bác ái của Chúa Ky Tô và văn hoá của dân tộc Việt. “Thương người như thể thương thân. Rét thời cho mặc, đói thời cho ăn”. Gia Huấn Ca cũng có dậy như vậy. Chúng ta không thể vì chính kiến hay lòng thù hận mà bỏ nguời ta đói khát trong cơn hoạn nạn; hoặc tệ hơn nữa là tố giác những kẻ ở bước đường cùng.
– Thưa vâng nhưng thưa …
– Cha hiểu …đó không phải lỗi của con. Nếu những kẻ được cứu giúp trong cơn hoạn nạn, sau này, trở mặt, lấy ân báo oán hoặc lại tiếp tục con đường tà đạo thì đó là tội lỗi của họ…
– Dạ vâng nhưng điều khiến con áy náy là…
– Là gì nữa?
– Là vì họ… vẫn còn dưới hầm nhà…
– Con nói sao?
– Thưa cha, qúi vị cán bộ cộng sản trốn dưới hầm nhà con vẫn còn sống ở duới đó cho mãi đến bây giờ.
– Ối, Giê Xu Ma…lậy Chúa tôi! Sao lại thế, hả con?
– Vì con vẫn chưa cho họ biết là “cách mạng” … đã thành công!
– Nhưng… sao… sao… con lại … lại … đãng trí đến như thế được?
– Tại con rút kinh nghiệm hồi kháng chiến chống Tây. Thuở ấy, bố con cũng chứa cán bộ cộng sản trong nhà; sau này, chính những nguời này đã “dàn dựng” để “nhân dân” mang ông cụ ra … đấu tố cho đến chết! Bởi vậy nên con sợ…
– Kể thì cũng như nuôi rắn trong nhà, đáng sợ thật chứ chả phải chuyện đùa!
– Xin cha giúp con…
– Thôi thế này con ạ, về lấy xi măng lấp luôn cái hầm nhà lại cho…xong! Đỡ được đứa nào hay đứa đó. Tội nghiệt này, xin Chúa nhân từ chứng giám, ta xin chịu thay con.
– Con xin lĩnh ý cha; tuy nhiên, việc làm này, cũng xin Chúa nhân từ chứng giám (“I am more than happy to do that…”), con làm thì con chịu, không liên hệ gì đến cha hoặc bất cứ ai.
Nhờ đức bác ái của đạo Công Giáo nên (lậy Chúa từ nhân) việc chôn sống cán bộ đã không thực sự xẩy ra, như rất nhiều người … mong ước! Câu chuyện đùa vừa kể tôi chỉ chợt nghĩ ra, sau khi đọc mấy câu thơ – ngắn ngủi – của Bùi Minh Quốc:
Sau lưng mẹ là tổ quốc mình trong khổ nạn
Là những đứa con nằm vùng mẹ nuôi dấu ngày đêm
Có những lúc mẹ chưa kịp nhìn rõ mặt biết tên
Chỉ biết nó là cách mạng.
Mẹ đâu ngờ …
Có thằng con thoát chết vụ khui hầm
Trở về ngồi chễm trệ…
Có người mẹ tóc bạc chân trần oằn lưng
Dưới chồng đơn khiếu nại
Nặng hơn dẫy Trường Sơn
(“Mẹ Đâu Ngờ” – 1988)
Thiếu gì chuyện bất ngờ (và bất nhân) hơn thế. Mấy thằng con thoát chết sau vụ khui hầm, khi trở về, đâu chỉ chịu ngồi chễm trệ trên những chồng đơn khiếu nại. Gian tham và bội bạc chưa đủ. Những đứa con “cách mạng”, của qúi “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, còn muốn cả nước đều phải sợ hãi cúi đầu trước quyền lực của chúng nữa kìa.
Bởi thế, Pháp Sư Trí Độ, Chủ Tịch Hội Phật Giáo VN (tổ chức Phật Giáo duy nhất ở miền Bắc) đã (phải) xuất hiện tại lễ đài chiến thắng ở Sài Gòn – vào năm 1975 – với quần tây và áo sơ mi cụt tay, trông cứ y như là một anh … cán bộ (nhà quê) vậy! Hình ảnh mỉa mai và giễu cợt này đã nói lên một sự kiện hiển nhiên: sau hai mươi năm dở sống dở chết “trong lòng cách mạng”, đến năm 1975 thì Phật Giáo – ở miền Bắc – kể như là chết ngắc!
Vào thời điểm huy hoàng đó, toàn Đảng có lẽ đều đã hân hoan thơ thới nghĩ rằng tất cả qúi vị lãnh đạo tôn giáo của miền Nam – rồi ra – cũng sẽ đồng loạt ăn mặc (bậy bạ) y như ông Trí Độ và cũng sẽ ăn nói (quàng xiên) y như thế, mỗi khi phải bước lên lễ đài để ca tụng chiến thắng và công ơn của Đảng!
Bé cái lầm. Thời gian – cùng với những sự kiện liên tiếp xẩy ra trong hơn một phần tư thế kỷ qua – đã chứng minh cho những người cộng sản VN thấy rằng họ rất chủ quan, rất lầm, lầm lớn, và lầm lắm.
Có lần tôi nghe một sĩ phu Bắc Hà nói rằng Đảng cộng sản Việt Nam như người đi đường không biết dùng bản đồ, cho nên thỉnh thoảng lại sa xuống hầm hay xuống hố. Mỗi lần lóp ngóp leo lên được thì Đảng lại bắt toàn dân hô vang thắng lợi. Cứ thế, Đảng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tôi e rằng chuyện bắt cóc một số những tu sĩ Phật Giáo – vào ngày 9 tháng 10 năm 2003, tại chân đèo Lương Sơn, ở tỉnh Khánh Hoà- là “thắng lợi” cuối cùng của Đảng Cộng Sản VN.
Sự biến này đã được nhà bình luận Trần Đức ghi nhận như sau: ”Theo dõi những tin tức qua hãng thông tấn quốc tế, các bản thông cáo của Phòng Thông Tin Phật Giáo Hải Ngoại, các trang nhà trên mạng internet hoàn cầu, đặc biệt là Mạng Lưới Tuổi Trẻ Lên Đường với những cuộc phỏng vấn trực tiếp những người trong cuộc … về vụ nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp qúi vị chức sắc Phật Giáo trong những ngày qua, rồi đối chiếu với những gì cộng sản Hà Nội tuyên bố qua người phát ngôn chính thức cũng như những quan chức cộng sản liên quan, thì không có danh từ nào khác tương ứng với chính quyền cộng sản tại Việt Nam bằng danh từ vô lại, vô nhân cách” (http://www.lenduong.net/article.php3?id_article=5323).
Tôi e rằng ông Trần Đức đã quá nặng lời. Ông ấy không thông cảm với giới cầm quyền ở Việt Nam trước tìnth thế khó khăn và bi đát hiện tại. Thái độ “vô lại” không nhất thiết đã là do hệ quả của sự vô học, vô giáo dục, và mất dậy của những kẻ côn đồ vô nhân cách mà (đôi khi ) chỉ là cách ứng xử “bình thường” của những nguời bị rơi vào một hoàn cảnh… vô vọng, thế thôi.
Coi: chỉ để ngăn chận chín vị tu sĩ trên đường đi từ Bình Định vào Sài Gòn – trong ba ngày liên tiếp, từ 8 tháng 10 đến 11 tháng 10 năm 2003 – nhà đương cuộc Hà Nội đã phải huy động một lực lượng đông đảo và hùng hậu, như sau:
– Bộ Công An: gồm công an đặc trách an ninh tôn giáo, công an lưu thông, công an hình sự , và một số không nhỏ công an … giả dạng thường dân.
– Giới chức mọi cấp của những ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, Thừa Thiên – Huế, và Sài Gòn.
– Ban tôn giáo (thuộc Mặt Trận Tổ Quốc VN) của các tỉnh và trung ương.
– Hội Đồng Chứng Minh và các ban Trị Sự của Giáo Hội Phật Giáo (quốc doanh).
Tất cả những giới chức và cán bộ của (cả đống) những cơ quan vừa nêu đều rất
loạng quạng, hốt hoảng và đã không ngừng … dẫm chân lên nhau, khi thi hành việc chận bắt qúi vị tu sĩ Phật Giáo trên đường di chuyển của họ. “Cán bộ dùng mọi lý luận quanh co, nhiều khi dẫn đến chỗ phi lý, thiếu trình độ, cho thấy chính quyền các cấp hoàn toàn bối rối trước vấn đề pháp lý tế nhị “- theo như nhận xét của một tu sĩ trong cuộc (http://www.danchimviet.com/vietnam/SuBienLuongSon.shtml). Còn nói theo ngôn ngữ trần tục, của đời thường, như ông Trần Đức, là họ đã ứng xử hoàn toàn “ vô nhân cách“!
Chuyện “nhân cách” hay “liêm sỉ” của những người cộng sản, dù nói tới tết (hay tới chết) cũng vậy thôi. Tôi không rảnh để “bình luận” về chuyện đó.Tôi viết những giòng chữ này chỉ để đáp ứng lời kêu gọi của Uûy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (được đăng tải trên báo Nhân Dân, số ra ngày 14 tháng 10 năm 2003) về việc “mong mỏi mọi người góp ý kiến xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Chuyện dài “bảo vệ” và “xây dựng” tổ quốc, theo định hướng XHCN, tôi (thiệt tình) không dám xía vô. Qua sự Biến Lương Sơn, tôi chỉ có ý kiến – như sau:
Lợi tức trung bình của một người dân Việt là 418 Mỹ Kim, như đã được công bố vào ngày 20 và 21 tháng 10 năm 2003 – tại Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC. Bên cạnh những gia đình quan chức có thể chi phí hàng trăm ngàn Mỹ Kim cho một buổi tiệc sinh nhật, theo phúc trình của Bộ Lao Động Thương Binh Và Xã Hội VN thì những người dân Việt sống ở nông thôn, vùng núi và hải đảo chỉ thu hập được từ 30 đến 80 Mỹ Kim – hàng năm (http://www.nguoi-viet.com/uni/1003/VIETNAM.HTM) .
Con giun xéo mãi cũng oằn! Qúi vị đã chứng kiến (và cảm thấy rất bất an) trước cảnh nông dân Thái Bình và những người dân ở Cao Nguyên nổi dậy. Rồi chỉ cần một vị linh mục ở xứ đạo Nguyệt Biều – nhỏ bé, hẻo lánh, xa xôi – nào đó, đứng lên hô to một tiếng (TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT), cũng đủ khiến qúi vị … sợ hết hồn! Sức mạnh của “chuyên chính vô sản”, xem ra, không (còn) mạnh lắm. Nhìn cái cách qúi vị loay hoay (khổ sở) trong cái hố bé tí teo, có tên là Lương Sơn, sao tôi cứ lo rằng đây là cái … hố cuối của Đảng CSVN.
Sự ruỗng mục trong guồng máy cai trị của qúi vị mọi người đều biết, và biết rất
rõ. Chỉ vì lòng từ bi, vì đức bác ái, và vì xót xa cho tín đồ đã chịu khổ nạn quá nhiều nên những người thuộc giới lãnh đạo – của mọi tôn giáo ở Việt Nam – đã luôn luôn hành xử hết sức nhẫn nhục và tự chế. Ai cũng cóù thể cảm thấy được từ tâm của Thượng Toạ Tuệ Sĩ, qua “Sự Biến Lương Sơn:” Chính quyền nên rút ra đây một bài học đáng giá, tuy chưa có sự vụ gì đáng tiếc xẩy ra. Nhưng đã không thể xẩy ra vì qúi thầy không cho phép, chứ không phải do an ninh của Chính quyền đã làm việc có hiệu quả”. Ở tuổi 84, sau khi bị công an “bắt cóc” để mang đi đấu tố cho đến khi ngất xỉu, cụ Lê Quang Liêm – Hội Trưởng Hôi Phật Giáo Hòa Hảo – trong kháng thư (đề ngày 8 tháng 6 năm 2003) vẫn ôn tồn khuyên nhủ qúi vị rằng:”Chỉ có tình thương mới xoá bỏ được hận thù. Chỉ có đức độ khoan dung mới tháo gỡ được oan cừu, ân oán.”
Hưng thịnh và suy tàn là lẽ tự nhiên của đất trời. Bạo phát và bạo tàn cũng là qui luật chung dành cho những chế độ bạo ngược. Qúi vị may mắn có được sự bao dung của cả dân tộc Việt, và còn đủ thời gian, cũng như phương tiện để … rút lui khỏi “hiện trường” – trước khi quá muộn. Giữa suy tàn và hủy diệt qúi vị phải chọn một. Từ chối một sự thực hiển nhiên cũng đồng nghĩa với tự hủy. Tôi cầu mong cho qúi vị có đủ sáng suốt để tránh cho cả dân tộc một cuộc đổ máu không cần thiết. Mà trong thảm hoạ này thì tính mạng và tài sản của qúi vị – cũng như của cả lũ con cháu – kể như là đi … đứt . Tôi nói lại là “đi đứt” chớ không phải là đi Đức (đi Tầu hay đi Mỹ) đâu nha!
Tưởng Năng Tiến (11/03).
NĂM KHỈ NÓI CHUYỆN NGƯỜI (VÀ NGỰA)
Cái ác là hình thức thô thiển nhất của sự ngu dốt.
Nikolai Rerikh
Tây và Tầu đều yêu thích ngựa. Ta thì không. Hoàn toàn và tuyệt nhiên không. Chả bao giờ nghe người Việt nhắc đến loài ngựa (và những thuộc tính của nó) với những lời lẽ thân thiện, tử tế hay trìu mến. Đã thế, có một phụ nữ Việt Nam- sau khi bị buộc tội gây thuơng tích trầm trọng cho người khác – trước toà, đã thản nhiên chỉ tay vào mặt nạn nhân, và nói (tỉnh rụi) như sau:
– Tui không có tội tình gì hết trơn á. Tui tạt át xít vô mặt cái “con đĩ ngựa” kia chỉ để tự vệ. Tui phải lo bảo vệ … hạnh phúc gia đình của mình chớ!
Một chuyện (thấy ghê) cỡ đó, rất có thể, bạn chưa bao giờ được nghe nhưng những lời lẽ chanh chua, trì triết, đắng cay, đay nghiến dành cho “những con đĩ ngựa” thì chắc chắn chính bạn đã nghe – hoặc nói luôn nữa, không chừng – nhiều lần chớ không phải một, đúng không? Nếu bạn lỡ quên (hoặc làm bộ quên) thì để tôi nhắc cho:
– Đồ đĩ ngựa!
– Chứ con đĩ ngựa (khốn nạn) đó nó có cái gì hơn tôi mà anh chết mê chết mệt, ăn dầm ở dề với nó, và mang tiền cho nó trơn hết trọi như vậy?
Hoặc, đôi khi, quyết liệt và đe doạ hơn nhiều:
– Từ nay trở đi anh ở với con đĩ ngựa đó luôn đi, đừng trở về đây nữa, cũng đừng gọi điện thoại cho mẹ con tôi làm gì cả.
– Bà mà biết con đĩ ngựa nào chim chồng bà thì đừng có trách nhá. Đồ khốn nạn.
“Đĩ ngựa”, tất nhiên, không phải là sinh vật duy nhất mà đời sống
và tính mạng (thuờng xuyên) bị đe dọa (trầm trọng) như thế – ở Việt Nam. Báo Thanh Niên, số ra ngày 23 tháng 9 năm 2003, đã lên tiếng báo động về nguy cơ tuyệt chủng của loài cá ngựa. Hiện nay, chỉ riêng khu vực Bến Đá – Ba Đình (Vũng Tầu) đã có hơn mười đại lý thu mua hải mã (một tên gọi qúi phái khác của cá ngựa) với giá một ký lên đến hai triệu đồng.
Cá ngựa rất được giá và bị săn bắt ráo riết vì bỗng dưng người ta “phát hiện” ra được tính bổ âm và cường dương của nó. Cá ngựa trị được bệnh hiếm muộn (cho phụ nữ) và yếu sinh lý (cho các đấng nam nhi). Xương hải mã xấy khô, ngâm rượu, ông uống bà (tấm tắc và rối rít) khen ngon. Thịt hải mã chưng gừng và hành lá, với nấm mèo và thịt ba chỉ bằm nhỏ, bà ăn ông (gật gù và suýt xoa) khen tốt. Đồng vợ đồng chồng tát bể Đông cũng cạn. Phen này bể Đông phải cạn. Biển cạn thì cá gì mà không thấy … mẹ, chớ có riêng chi cá ngựa.
Gấu ngựa, hiện tại, cũng đang lâm vào hoàn cảnh khốn đốn và lâm nguy không kém. Theo nguồn tin của hãng thông tấn AFP, phát đi từ Hà Nội hôm 1 tháng 10 năm 2003 thì hiện tại ở Việt Nam chỉ còn độ một trăm con gấu sống trong môi trường thiên nhiên, số còn lại (độ năm ngàn con) đang bị bắt giữ để lấy mật vì người ta tin rằng mật gấu pha với ruợu uống làm tăng cường sinh lực, và chữa được nhiều bệnh ngoại khoa rất công hiệu. Bản tin vừa dẫn cũng có trích lời của bà Jill Robinson, nhân viên của Asia Animal Foundation, như sau:” loài gấu sẽ biên mất ở Việt Nam, nếu tình trạng săn bắt gấu để ăn thịt hay để nuôi lấy mật như hiện nay”.
Và đó là chuyện đã cũ, từ hồi năm 2003 lận. Bà Jill Robison chắc chưa biết chuyện này: dân Việt mới (“chợt”) khám phá ra rằng mật của gấu ngựa còn chữa được cả bệnh ung thư nữõa cơ đấy! Loài gấu (nói chung) hậu vận chưa biết ra sao chứ gấu ngựa (nói riêng) phen này chắc chết, chết chắc, chứ không phải bỡn.
Ngoài đĩ ngựa, cá ngựa và gấu ngựa …. ra, còn một số “sinh vật” khác nữa cũng đang gặp nhiều chuyện lôi thôi lắm, lôi thôi lớn, lôi thôi lâu, và không chừng – dám lôi thôi luôn, lôi thôi vĩnh viễn hoặc nói tóm gọn lại là có có nguy cơ bi diệt chủng. Đó là người dân miền núi ở Việt Nam.
Trong bài tham luận có tựa là “Thực Hiện Tốt Chính Sách Dân Tộc Của Đảng”, được phổ biến vào ngày 23 tháng 9 năm 2003, bà Tòng Thị Phóng (Bí Thư Trung Ương Đảng, Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương) nhắc khẽ cả Đảng rằng phải :” quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số” ( http://www.vov.org.vn/2003_09_23/vietnamese/thoisu1.htm#10 ).
“Tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số” – nếu nói theo ngôn ngữ của đời thường – giản dị chỉ có nghĩa là nhiều sắc dân thiểu số ở Việt Nam đang chết dần, chết mòn và sắp chết hết đến nơi vì đói khát và bệnh tật – thế thôi!
Bà Tòng Thị Phóng không phải là … thường dân đâu à nha, cũng không phải là một con mẹ bá vơ nào đó (thuộc những tổ chức phản động hay thù nghịch ở nước ngoài) mà là Bí Thư Trung Ương Đảng và là Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương lận. Những gì bà ấy nói hẳn là phải có co sở, trọng lượng và cần phải được mọi người suy nghĩ.
Vì lý do “bảo vệ hạnh phúc gia đình” nên người ta (đành) phải tạt acid vào mặt mấy con đĩ ngựa, vì hy vọng có thể “bảo vệ hạnh phúc lứa đôi” nên người ta phải mần thịt những con cá ngựa, và để “bảo vệ sức khoẻ” nên người ta phải uống mật của những con gấu ngựa … Tất cả những chuyện này, nghĩ cho cùng, đều có thể (ráng) hiểu được. Còn việc tìm mọi cách hủy diệt đời sống của những người “ở vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến truớc đây” – nghĩa là những người mà Đảng đã chịu ơn, những người hoàn toàn không đụng chạm gì đến quyền lợi của Đảng hết trơn hết trọi – thì thiệt là một việc làm ác độc (vô cùng) khó hiểu.
Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số (những kẻ ở vùng xa, vùng sâu …) tự ngàn xưa. Họ chính là chủ nhân đích thực của đất nước Việt Nam. Và chính họ tạo thành tuyến đầu và vòng đai an ninh cho toàn lãnh thổ. Cũng chính họ, với cuộc sống đơn giản hài hoà với thiên nhiên, đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho tổ quốc. Cớ gì mà Đảng “phải” tìm mọi cách dồn họ vào tử lộ, đẩy họ đến mức diệt vong như thế?
Cái ác, trong trường hợp này, không chỉ là hình thức thô thiển nhất của sự ngu dốt. Nó còn cho thấy cái khía cạnh bệnh hoạn (sadism) của những người CSVN.
K. Tien
CÒ ĐÙM NGUYỄN VŨ BÌNH
Tính toàn cầu của khát vọng tự do là một
dấu chỉ đặc thù của thời đại chúng ta.
Đức Giáo Hoàng John Paul II
“…Thưở mới lớn tôi lỡ thương thầm một nhân vật trong bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nàng tên là Nghi Lâm. Một ni cô rất đẹp, rất dễ thương, rất thánh thiện và ngoan hiền chưa từng thấy.
Những năm tháng thanh xuân, tôi đi tìm (trong vô vọng) một người yêu như thế – một người (không chừng) dám chỉ có trong tiểu thuyết… Kim Dung. Xác xuất để gặp được đúng đối tượng (right person) trong tình trường – theo như tôi biết, qua thống kê – là một trên ba mươi sáu ngàn (1/36.000)! Con số này, than ơi, quá lớn và đời người thì (buồn thay) quá ngắn. Do đó, tôi đành lựa đại một người và rồi phải sống mãn kiếp trong cơn mộng vỡ – tan tành – của chính mình!..”
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng:”Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời.
Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng điệp viên James Bond vẫn 007 sống mãi trong sự nghiệp của … giới làm phim và trong … lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người – nhất là người Việt.
Ai cũng tưởng vậy nhưng không phải vậy. Tưởng vậy là lầm, là tưởng năng thối. Theo báo Phố Văn – số 3, bộ mới, phát hành từ Texas ngày 1 tháng 8 năm 2002 – thì dù sắp bước vào tuổi tám mươi, bỗng dưng, không hiểu sao, Kim Dung “quyết định viết lại một số tiểu thuyết đã được xuất bản trước đây, và một số nhân vật sẽ được thay thế hay ‘nhào nặn’ lại.”
Ý Trời đất, thiên địa, qủi thần ơi! Đó là một quyết định … chết người, chớ không phải giỡn chơi đâu nha – cha nội! Và kẻ đầu tiên tử nạn sẽ là chính tôi chớ còn ai vô đây nữa. Thưở mới lớn tôi lỡ thương thầm một nhân vật trong bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nàng tên là Nghi Lâm. Một ni cô rất đẹp, rất dễ thương, rất thánh thiện và ngoan hiền chưa từng thấy.
Những năm tháng thanh xuân, tôi đi tìm (trong vô vọng) một người yêu như thế – một người (không chừng) dám chỉ có trong tiểu thuyết… Kim Dung. Xác xuất để gặp được đúng đối tượng (right person) trong tình trường – theo như tôi biết, qua thống kê – là một trên ba mươi sáu ngàn (1/36.000)! Con số này, than ơi, quá lớn và đời người thì (buồn thay) quá ngắn. Do đó, tôi đành lựa đại một người và rồi phải sống mãn kiếp trong cơn mộng vỡ – tan tành – của chính mình!
Như thế tưởng cũng đã đủ bỏ mẹ đời tôi rồi mà Kim Dung vẫn chưa hả dạ. Thử nghĩ xem lỡ ông ấy “nhào nặn lại” Nghi Lâm thành một ni cô hoàn tục, ngồi bán tôm bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh hay cho thuê video phim sex ở phố Bolsa thì làm sao tôi sống nổi nữa – hả Giời!
Mà không phải tôi chết mình ên đâu nha. Phen này thiếu gì những người có bút danh như Kha Trấn Aùc, Du Thản Chi, Hư Trúc, Đoàn Dự, Vuơng Ngọc Yến, Lệnh Hồ Xung … trong “văn học Việt Nam” cũng sẽ lần lượt chết theo. Nói dại, lỡ mà Kim Dung “nhào nặn” lại Kiều Phong thành một ông quan (tham nhũng) của nước Hồ hay của bác Hồ thì ở thành phố San Diego – California – dám có người …tự vận!
Càng sống, càng gặp nhiều khổ đau (nơi đất khách quê người) tôi mới càng thấm thía lời chỉ dậy thâm thúy của ông bà tổ tiên mình:” Ta về ta tắm ao ta …” Việc gì phải chúi mũi vào sách vở Tây/Tầu làm chi cho đời thêm rắc rối. Việt Nam thiếu mẹ gì những những người viết truyện hay ho; đã thế, họ toàn là sản xuất ra những nhân vật thơm tho và lành mạnh.
Trong cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, do nhà Văn Nghệ in tại Hoa Kỳ (không ghi năm xuất bản), nơi trang 257, Võ Phiến viết rằng: “các truyện của ông Doãn nhân vật nào cũng tốt, việc gì cũng có khía cạnh hay. Ông bất lực không tạo được người xấu, kể nổi việc xấu. Đọc sách ông thơm tho cả tâm hồn”. Sướng chưa? Đã thế lại khỏi lo sợ phập phồng là có ngày những nhân vật mà mình yêu mến bị “nhào nặn” lại, thí dụ như Cò Đùm – một nhân vật của nhà văn Doãn Quốc Sĩ mà ngay cả ông Giời cũng không cách nào nhào nặn (lại) được.
“Khoảng một thời gian từ 1945 đến 1947 Cò Đùm như nhân vật một truyện cổ tích diễm phúc nhất. Tại cả vùng Phủ Quảng quê hương, thưở ban đầu kháng chiến, Cò Đùm là một trong số hiếm hoi những người đã thể hiện được đủ năm E: diện bộ đồ ka-ki ăng LE, tay đeo đồng hồ Vi-LE, đi xe đạp Luy-xi-FE bằng thứ nhôm rất nhẹ của Tây, bút máy gài túi áo nhãn hiệu Oe-rê-VE, và, chao ôi, điều này mới là vinh dự, sau khi đã cống hiến rất hậu hĩ cho chính phủ kháng chiến trong tuần lễ vàng, anh được đóng thuế hạng E, tức là hạng cao nhất sau bốn hạng A,B,C,D. Giấc mộng đẹp phù du đó qua mau và phũ phàng.
Chỉ mới sang khoảng 1947, anh đã nhận chân rằng thuộc thành phần địa chủ như gia đình anh, gặp nhiều khó khăn lắm trong cuộc sống song hành với những đảng viên đảng Lao Động đương lãnh đạo cuộc kháng chiến. Biết là sống lộ liễu ở quê hưong không nổi, anh đơn độc lẳng lặng dọn đến làng Cốc…và sinh sống bằng nghề buôn thuốc Tây và chích dạo. Gia đình anh đóng thuế nông nghiệp. Khánh tận của chìm của nổi rồi, mẹ già anh vừa mất, chắc chắn u uất mà chết, chỉ còn vợ anh và lũ con thơ. Mẹ anh được chôn cất xong, công tác bao vây địa chủ tiếp tục tiến hành. Họ bao vây nhà anh bằng trống lớn, trống nhỏ thay phiên nhau gõ liên miên như hổ huê riễu cợt, như chửi rủa thúc dục. Nhưng vợ anh quả không còn một đồng một chữ trong tay để trả thuế nông nghiệp. Ruộng bán không ai mua, nhờ cầy nhờ cấy không ai giúp, vì tránh liên hệ với địa chủ. Họ đánh trống liên miên như vậy suốt ba ngày đêm, tiếng trống bỗng ngưng bặt vào sớm tinh sương hôm đó giữa sự bỡ ngỡ của chị Cò Đùm. Chị bước ra sân, và chị rụng rời tưởng có thể khụyu xuống ngất xỉu.
Ba cây cau cao ngất ngoài sân trước nhà, cây cau chính giữa phất phới một lá cờ đỏ sao vàng to gấp đôi lá cờ vuông cổ truyền vẫn treo phất phới trước sân đình vào những ngày hội ngày xuân xưa cũ. Đó là bản án tử hình căn nhà và năm mẹ con chị mà đao thủ phủ sẽ là một phi công địch nào chợt bay qua đó… Đã bao nhiêu ngày chần chừ, nhưng tới đó thì Cò Đùm không thể chần chừ được nữa. Phải về tức khắc! Và Cò Đùm đã vê tức khắc. ..Cò Đùm đã về tới Phủ Quảng ra sao, trình diện ra sao, điều đình với ủy ban hành chánh kháng chiến ra sao, lá cờ đỏ sao vàng được hạ xuống khỏi cây cau chính giữa ra sao, tôi không được biết một chút chi tiết nào, và cũng như bao giờ, tôi chỉ nghe Cò Đùm sau giờ học Pháp văn tâm sự tới đâu hay tới đấy, tuyệt nhiên không gợi hỏi thêm một lời nào. Tôi theo kỷ luật này, tin rằng đó là nghi lễ tối thiểu tôi phải có với Cò Đùm.”
Tình cảnh của Cò Đùm, vẫn theo như mô tả của Doãn Quốc Sỹ là “Cảnh một ngày mùa đông mưa gió rập rùi, tơi tả, chân tay lạnh cóng, áo quần rách mướp, chỉnh gạo không có một hạt, vợ đau con ốm, vũ trụ và con người như vừa đẩy đưa tới thềm tận diệt.” Cảnh sống “rập rùi, tơi tả” như thế đã kéo dài hơn nửa thế kỷ ở Việt Nam. Những anh/chị Cò Đùm đã xoay sở thế nào để bản thân và gia đình vẫn được sống còn trong những mùa đông vô tận và nghiệt ngã đó? Họ đã chịu đựng tai ương và hiểm hoạ cộng sản, cũng như đã âm thầm (ẩn nhẫn) chống lại với sự ác độc và xấu xa của nó cách nào để gìn giữ cho cả dân tộc Việt khỏi bị diệt vong?
Chính Doãn Quốc Sỹ đã trả lời như sau:
“Có thể coi Cò Đùm là tượng trưng cho tâm hồn điển hình nhất của quảng đại quần chúng Việt Nam vùng thôn dã. Một tâm hồn bén nhậy, tuyệt luân khôn ngoan mà không biết rằng mình khôn ngoan, đôn hậu mà không biết mình đôn hậu. Đầu đội giời chân đạp đất, đi đứng vững chãi bằng cả con người, cảm xúc và phản ứng bằng cả con người, và cực kỳ bén nhậy, cực kỳ chu đáo, cực kỳ sáng suốt, để tự bảo tồn và cũng có nghĩa là bảo tồn dòng giống quê hương… Cò Đùm, hay con Cò Đùm cũng thế, vẫn nằm nguyên đó như mầm sen lẩn sâu dưới đáy bùn. Và tôi nhìn thấy mầm sen chợt nở, đó là đêm tôi đứng khựng trước TV bắt gặp chàng thanh niên có chiếc răng khểnh… ”
Đó là vào một đêm tháng 8 năm 1974, theo như tác giả ghi lại cuối truyện ngắn “Cò Đùm” – trong tuyển tập truyện ngắn (cùng tên) do nhà xuất bản Văn Nghệ in tại Hoa Kỳ năm 1997. Những đoạn văn trong ngoặc kép (in nghiêng) dẫn thượng đều được trích dẫn từ truyện ngắn này.
Phần tôi, hơn một phần tư thế kỷ sau, sang đầu thế kỷ 21, tôi mới tình cờ nhìn thấy Cò Đùm (hay cháu Cò Đùm cũng thế) vào một đêm giữa tháng 8 năm 2002 trên màn ảnh … internet. Đêm hôm ấy tôi lò dò đi tìm một số tài liệu vì có dự tính sẽ cùng bạn bè tổ chức một buổi hội thảo về những người trẻ đang đấu tranh cho tự do và dân chủ ở Việt Nam – như Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn…
Và tôi tìm ra Nguyễn Vũ Bình. Anh sinh ngày 02 tháng 11 năm 1968 tại tỉnh Nam Định, tốt nghiệp đại học Tổng Hợp, sau đó làm phóng viên kinh tế của tạp chí Cộng Sản từ năm 92 đến năm 2000. Anh có vợ và hai con gái đang sống tại Hà Nội. Những năm gần đây Nguyễn Vũ Bình tham gia tích cực vào những sinh hoạt đòi hỏi tự do và dân chủ cho Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 2000, anh xin thành lập đảng đối lập. Ngày 5 tháng 9 năm 2001, anh xin thành lập Hội Chống Tham Nhũng. Hai việc làm này đã khiến anh mất việc và bị sách nhiễu bởi nhà đương cuộc Hà Nội. Những đe doạ “lặt vặt” như thế không làm cho Nguyễn Vũ Bình nao núng. Ngày 6 tháng 7 năm 2002 (cùng mười sáu nhân sĩ khác) anh đã ký tên vào bản thỉnh nguyện yêu cầu những người cầm đầu đảng CSVN xét lại những hành động sai trái và vi phạm dân chủ của họ. Và mới đây, ngày 20 tháng 7 năm 2002, Nguyễn Vũ Bình đã gửi bản điều trần “về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam” đến quốc hội Hoa Kỳ. Anh bị câu lưu hai ngày sau đó…
Đang lướt nhanh qua những sự kiện như thế ở trang http://web.wanadoo.be/mykvn/clb002.html (của Câu Lạc Bộ Những Chiến Sĩ Dân Chủ Cho Việt Nam – The Democracy Club for Viet Nam) tôi bỗng thấy hình của một thanh niên độ tuổi ba mươi, trông rất quê mùa và rất … Việt Nam hiện lên màn ảnh. Không dưng, tim tôi như đập hụt đi một nhịp. Ai như Cò Đùm vậy kìa? Đích thị là Cò Đùm chứ còn ai nữa. Trực giác bảo tôi như thế. “Cò Đùm Nguyễn Vũ Bình”, tôi thầm reo giữa đêm khuya và nước mắt bỗng ứa ra – chẩy dài xuống má. Tôi vẫn khóc thầm hoài vì tôi có quá nhiều lý do để khóc, nhất là sau khi tỉnh ruợu vào những lúc trời gần về sáng. Nhưng hơn hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên tôi khóc vì cảm động, vui mừng và sung sướng … Tôi bỗng cảm nhận được sự kỳ diệu của hồn thiêng sông núi và sức mạnh của cả dân tộc mình đang tràn dâng qua bức hình của Nguyễn Vũ Bình. Tự nhiên tôi cũng có sự xác tín rằng dân tộc mình chắc chắn sẽ thắng và sắp thắng trong cuộc đấu tranh hiện tại với cường quyền.
Nhà đương cuộc Hà Nội không phải chỉ đang đối mặt với từng cá nhân đơn lẻ đòi hỏi tự do và công lý như Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn hay Nguyễn Vũ Bình… Họ đang phải đuơng đầu với cả một thế hệ Cò Đùm của thế kỷ thứ XXI – những con người tràn đầy niềm tin, dũng khí, sinh lực và tự trang bị đầy ắp kiến thức cùng với những phương tiện tối tân nhất của thời đại thông tin. Trong khi đó cả đảng CSVN chỉ còn những đảng viên già nua, bệnh hoạn, bẩn thỉu chân tay lập cập với những thứ “vũ khí” đã lỗi thời: dối trá, bạo lực và những thủ đoạn vặt vãnh kiểu như cắt điện thoại, xem trộm thư, ném đá vào nhà, nhìn lỗ khoá…
Cái chiến thuật “cổ điển” như “chối bai bải” hay dùng “lưỡi gỗ” chỉ còn mang lại những tác dụng ngược vì những Cò Đùm hôm nay đã chuyển dịch được những tài liệu viết về dân chủ (từ những web site viết bằng ngoại ngữ) và “phóng ngược” lên “internet” cho mọi người cùng đọc, đã viết được những bài phân tích sâu sắc và chính xác về thảm trạng của quê hương, đã can đảm và trung thực gửi bản điều trần về tình trạng xâm phạm nhân quyền ở Việt Nam đến nhân loại khắp Năm Châu. Và từ khắp bốn phương trời, có vô số những Cò Đùm đang lưu lạc nhưng mắt luôn đăm đăm nhìn về quê mẹ.
Và tôi rưng rưng xúc động khi nghe được những lời nói ôn tồn, chừng mực, trầm tĩnh thể hiện được tấm lòng nhẫn nại, nhân ái, bao dung và độ lượng vô biên của dân tộc Việt qua lời của Cò Đùm Nguyễn Vũ Bình – khi anh trả lời phỏng vấn của đài BBC vào hôm 15 tháng 6 năm 2002:”Vấn đề mà tôi đặt ra là chờ đợi sự thay đổi của Đảng CSVN thì rất khó khăn và tôi cho rằng Đảng CSVN không thể làm nổi. Cái đơn giản nhất cho xã hội mà họ còn có thể làm được hiện nay là cho phép hình thành lực lượng đối lập để lực lượng này kiểm tra, giám sát và làm đối trọng quyền lực… Trên cơ sở đó tôi đã làm đơn xin thành lập một đảng như thế…”
Tôi cũng hy vọng (mỏng manh) những người đang cầm quyền ở Việt Nam còn đủ chút lý trí để nhìn ra được vấn đề “như thế”, trước khi quá muộn.
Tưởng Năng Tiến
CÒ ĐÙM NGUYỄN VŨ BÌNH
Tính toàn cầu của khát vọng tự do là một
dấu chỉ đặc thù của thời đại chúng ta.
Đức Giáo Hoàng John Paul II
“…Thưở mới lớn tôi lỡ thương thầm một nhân vật trong bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nàng tên là Nghi Lâm. Một ni cô rất đẹp, rất dễ thương, rất thánh thiện và ngoan hiền chưa từng thấy.
Những năm tháng thanh xuân, tôi đi tìm (trong vô vọng) một người yêu như thế – một người (không chừng) dám chỉ có trong tiểu thuyết… Kim Dung. Xác xuất để gặp được đúng đối tượng (right person) trong tình trường – theo như tôi biết, qua thống kê – là một trên ba mươi sáu ngàn (1/36.000)! Con số này, than ơi, quá lớn và đời người thì (buồn thay) quá ngắn. Do đó, tôi đành lựa đại một người và rồi phải sống mãn kiếp trong cơn mộng vỡ – tan tành – của chính mình!..”
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng:”Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời.
Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng điệp viên James Bond vẫn 007 sống mãi trong sự nghiệp của … giới làm phim và trong … lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người – nhất là người Việt.
Ai cũng tưởng vậy nhưng không phải vậy. Tưởng vậy là lầm, là tưởng năng thối. Theo báo Phố Văn – số 3, bộ mới, phát hành từ Texas ngày 1 tháng 8 năm 2002 – thì dù sắp bước vào tuổi tám mươi, bỗng dưng, không hiểu sao, Kim Dung “quyết định viết lại một số tiểu thuyết đã được xuất bản trước đây, và một số nhân vật sẽ được thay thế hay ‘nhào nặn’ lại.”
Ý Trời đất, thiên địa, qủi thần ơi! Đó là một quyết định … chết người, chớ không phải giỡn chơi đâu nha – cha nội! Và kẻ đầu tiên tử nạn sẽ là chính tôi chớ còn ai vô đây nữa. Thưở mới lớn tôi lỡ thương thầm một nhân vật trong bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nàng tên là Nghi Lâm. Một ni cô rất đẹp, rất dễ thương, rất thánh thiện và ngoan hiền chưa từng thấy.
Những năm tháng thanh xuân, tôi đi tìm (trong vô vọng) một người yêu như thế – một người (không chừng) dám chỉ có trong tiểu thuyết… Kim Dung. Xác xuất để gặp được đúng đối tượng (right person) trong tình trường – theo như tôi biết, qua thống kê – là một trên ba mươi sáu ngàn (1/36.000)! Con số này, than ơi, quá lớn và đời người thì (buồn thay) quá ngắn. Do đó, tôi đành lựa đại một người và rồi phải sống mãn kiếp trong cơn mộng vỡ – tan tành – của chính mình!
Như thế tưởng cũng đã đủ bỏ mẹ đời tôi rồi mà Kim Dung vẫn chưa hả dạ. Thử nghĩ xem lỡ ông ấy “nhào nặn lại” Nghi Lâm thành một ni cô hoàn tục, ngồi bán tôm bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh hay cho thuê video phim sex ở phố Bolsa thì làm sao tôi sống nổi nữa – hả Giời!
Mà không phải tôi chết mình ên đâu nha. Phen này thiếu gì những người có bút danh như Kha Trấn Aùc, Du Thản Chi, Hư Trúc, Đoàn Dự, Vuơng Ngọc Yến, Lệnh Hồ Xung … trong “văn học Việt Nam” cũng sẽ lần lượt chết theo. Nói dại, lỡ mà Kim Dung “nhào nặn” lại Kiều Phong thành một ông quan (tham nhũng) của nước Hồ hay của bác Hồ thì ở thành phố San Diego – California – dám có người …tự vận!
Càng sống, càng gặp nhiều khổ đau (nơi đất khách quê người) tôi mới càng thấm thía lời chỉ dậy thâm thúy của ông bà tổ tiên mình:” Ta về ta tắm ao ta …” Việc gì phải chúi mũi vào sách vở Tây/Tầu làm chi cho đời thêm rắc rối. Việt Nam thiếu mẹ gì những những người viết truyện hay ho; đã thế, họ toàn là sản xuất ra những nhân vật thơm tho và lành mạnh.
Trong cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, do nhà Văn Nghệ in tại Hoa Kỳ (không ghi năm xuất bản), nơi trang 257, Võ Phiến viết rằng: “các truyện của ông Doãn nhân vật nào cũng tốt, việc gì cũng có khía cạnh hay. Ông bất lực không tạo được người xấu, kể nổi việc xấu. Đọc sách ông thơm tho cả tâm hồn”. Sướng chưa? Đã thế lại khỏi lo sợ phập phồng là có ngày những nhân vật mà mình yêu mến bị “nhào nặn” lại, thí dụ như Cò Đùm – một nhân vật của nhà văn Doãn Quốc Sĩ mà ngay cả ông Giời cũng không cách nào nhào nặn (lại) được.
“Khoảng một thời gian từ 1945 đến 1947 Cò Đùm như nhân vật một truyện cổ tích diễm phúc nhất. Tại cả vùng Phủ Quảng quê hương, thưở ban đầu kháng chiến, Cò Đùm là một trong số hiếm hoi những người đã thể hiện được đủ năm E: diện bộ đồ ka-ki ăng LE, tay đeo đồng hồ Vi-LE, đi xe đạp Luy-xi-FE bằng thứ nhôm rất nhẹ của Tây, bút máy gài túi áo nhãn hiệu Oe-rê-VE, và, chao ôi, điều này mới là vinh dự, sau khi đã cống hiến rất hậu hĩ cho chính phủ kháng chiến trong tuần lễ vàng, anh được đóng thuế hạng E, tức là hạng cao nhất sau bốn hạng A,B,C,D. Giấc mộng đẹp phù du đó qua mau và phũ phàng.
Chỉ mới sang khoảng 1947, anh đã nhận chân rằng thuộc thành phần địa chủ như gia đình anh, gặp nhiều khó khăn lắm trong cuộc sống song hành với những đảng viên đảng Lao Động đương lãnh đạo cuộc kháng chiến. Biết là sống lộ liễu ở quê hưong không nổi, anh đơn độc lẳng lặng dọn đến làng Cốc…và sinh sống bằng nghề buôn thuốc Tây và chích dạo. Gia đình anh đóng thuế nông nghiệp. Khánh tận của chìm của nổi rồi, mẹ già anh vừa mất, chắc chắn u uất mà chết, chỉ còn vợ anh và lũ con thơ. Mẹ anh được chôn cất xong, công tác bao vây địa chủ tiếp tục tiến hành. Họ bao vây nhà anh bằng trống lớn, trống nhỏ thay phiên nhau gõ liên miên như hổ huê riễu cợt, như chửi rủa thúc dục. Nhưng vợ anh quả không còn một đồng một chữ trong tay để trả thuế nông nghiệp. Ruộng bán không ai mua, nhờ cầy nhờ cấy không ai giúp, vì tránh liên hệ với địa chủ. Họ đánh trống liên miên như vậy suốt ba ngày đêm, tiếng trống bỗng ngưng bặt vào sớm tinh sương hôm đó giữa sự bỡ ngỡ của chị Cò Đùm. Chị bước ra sân, và chị rụng rời tưởng có thể khụyu xuống ngất xỉu.
Ba cây cau cao ngất ngoài sân trước nhà, cây cau chính giữa phất phới một lá cờ đỏ sao vàng to gấp đôi lá cờ vuông cổ truyền vẫn treo phất phới trước sân đình vào những ngày hội ngày xuân xưa cũ. Đó là bản án tử hình căn nhà và năm mẹ con chị mà đao thủ phủ sẽ là một phi công địch nào chợt bay qua đó… Đã bao nhiêu ngày chần chừ, nhưng tới đó thì Cò Đùm không thể chần chừ được nữa. Phải về tức khắc! Và Cò Đùm đã vê tức khắc. ..Cò Đùm đã về tới Phủ Quảng ra sao, trình diện ra sao, điều đình với ủy ban hành chánh kháng chiến ra sao, lá cờ đỏ sao vàng được hạ xuống khỏi cây cau chính giữa ra sao, tôi không được biết một chút chi tiết nào, và cũng như bao giờ, tôi chỉ nghe Cò Đùm sau giờ học Pháp văn tâm sự tới đâu hay tới đấy, tuyệt nhiên không gợi hỏi thêm một lời nào. Tôi theo kỷ luật này, tin rằng đó là nghi lễ tối thiểu tôi phải có với Cò Đùm.”
Tình cảnh của Cò Đùm, vẫn theo như mô tả của Doãn Quốc Sỹ là “Cảnh một ngày mùa đông mưa gió rập rùi, tơi tả, chân tay lạnh cóng, áo quần rách mướp, chỉnh gạo không có một hạt, vợ đau con ốm, vũ trụ và con người như vừa đẩy đưa tới thềm tận diệt.” Cảnh sống “rập rùi, tơi tả” như thế đã kéo dài hơn nửa thế kỷ ở Việt Nam. Những anh/chị Cò Đùm đã xoay sở thế nào để bản thân và gia đình vẫn được sống còn trong những mùa đông vô tận và nghiệt ngã đó? Họ đã chịu đựng tai ương và hiểm hoạ cộng sản, cũng như đã âm thầm (ẩn nhẫn) chống lại với sự ác độc và xấu xa của nó cách nào để gìn giữ cho cả dân tộc Việt khỏi bị diệt vong?
Chính Doãn Quốc Sỹ đã trả lời như sau:
“Có thể coi Cò Đùm là tượng trưng cho tâm hồn điển hình nhất của quảng đại quần chúng Việt Nam vùng thôn dã. Một tâm hồn bén nhậy, tuyệt luân khôn ngoan mà không biết rằng mình khôn ngoan, đôn hậu mà không biết mình đôn hậu. Đầu đội giời chân đạp đất, đi đứng vững chãi bằng cả con người, cảm xúc và phản ứng bằng cả con người, và cực kỳ bén nhậy, cực kỳ chu đáo, cực kỳ sáng suốt, để tự bảo tồn và cũng có nghĩa là bảo tồn dòng giống quê hương… Cò Đùm, hay con Cò Đùm cũng thế, vẫn nằm nguyên đó như mầm sen lẩn sâu dưới đáy bùn. Và tôi nhìn thấy mầm sen chợt nở, đó là đêm tôi đứng khựng trước TV bắt gặp chàng thanh niên có chiếc răng khểnh… ”
Đó là vào một đêm tháng 8 năm 1974, theo như tác giả ghi lại cuối truyện ngắn “Cò Đùm” – trong tuyển tập truyện ngắn (cùng tên) do nhà xuất bản Văn Nghệ in tại Hoa Kỳ năm 1997. Những đoạn văn trong ngoặc kép (in nghiêng) dẫn thượng đều được trích dẫn từ truyện ngắn này.
Phần tôi, hơn một phần tư thế kỷ sau, sang đầu thế kỷ 21, tôi mới tình cờ nhìn thấy Cò Đùm (hay cháu Cò Đùm cũng thế) vào một đêm giữa tháng 8 năm 2002 trên màn ảnh … internet. Đêm hôm ấy tôi lò dò đi tìm một số tài liệu vì có dự tính sẽ cùng bạn bè tổ chức một buổi hội thảo về những người trẻ đang đấu tranh cho tự do và dân chủ ở Việt Nam – như Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn…
Và tôi tìm ra Nguyễn Vũ Bình. Anh sinh ngày 02 tháng 11 năm 1968 tại tỉnh Nam Định, tốt nghiệp đại học Tổng Hợp, sau đó làm phóng viên kinh tế của tạp chí Cộng Sản từ năm 92 đến năm 2000. Anh có vợ và hai con gái đang sống tại Hà Nội. Những năm gần đây Nguyễn Vũ Bình tham gia tích cực vào những sinh hoạt đòi hỏi tự do và dân chủ cho Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 2000, anh xin thành lập đảng đối lập. Ngày 5 tháng 9 năm 2001, anh xin thành lập Hội Chống Tham Nhũng. Hai việc làm này đã khiến anh mất việc và bị sách nhiễu bởi nhà đương cuộc Hà Nội. Những đe doạ “lặt vặt” như thế không làm cho Nguyễn Vũ Bình nao núng. Ngày 6 tháng 7 năm 2002 (cùng mười sáu nhân sĩ khác) anh đã ký tên vào bản thỉnh nguyện yêu cầu những người cầm đầu đảng CSVN xét lại những hành động sai trái và vi phạm dân chủ của họ. Và mới đây, ngày 20 tháng 7 năm 2002, Nguyễn Vũ Bình đã gửi bản điều trần “về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam” đến quốc hội Hoa Kỳ. Anh bị câu lưu hai ngày sau đó…
Đang lướt nhanh qua những sự kiện như thế ở trang http://web.wanadoo.be/mykvn/clb002.html (của Câu Lạc Bộ Những Chiến Sĩ Dân Chủ Cho Việt Nam – The Democracy Club for Viet Nam) tôi bỗng thấy hình của một thanh niên độ tuổi ba mươi, trông rất quê mùa và rất … Việt Nam hiện lên màn ảnh. Không dưng, tim tôi như đập hụt đi một nhịp. Ai như Cò Đùm vậy kìa? Đích thị là Cò Đùm chứ còn ai nữa. Trực giác bảo tôi như thế. “Cò Đùm Nguyễn Vũ Bình”, tôi thầm reo giữa đêm khuya và nước mắt bỗng ứa ra – chẩy dài xuống má. Tôi vẫn khóc thầm hoài vì tôi có quá nhiều lý do để khóc, nhất là sau khi tỉnh ruợu vào những lúc trời gần về sáng. Nhưng hơn hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên tôi khóc vì cảm động, vui mừng và sung sướng … Tôi bỗng cảm nhận được sự kỳ diệu của hồn thiêng sông núi và sức mạnh của cả dân tộc mình đang tràn dâng qua bức hình của Nguyễn Vũ Bình. Tự nhiên tôi cũng có sự xác tín rằng dân tộc mình chắc chắn sẽ thắng và sắp thắng trong cuộc đấu tranh hiện tại với cường quyền.
Nhà đương cuộc Hà Nội không phải chỉ đang đối mặt với từng cá nhân đơn lẻ đòi hỏi tự do và công lý như Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn hay Nguyễn Vũ Bình… Họ đang phải đuơng đầu với cả một thế hệ Cò Đùm của thế kỷ thứ XXI – những con người tràn đầy niềm tin, dũng khí, sinh lực và tự trang bị đầy ắp kiến thức cùng với những phương tiện tối tân nhất của thời đại thông tin. Trong khi đó cả đảng CSVN chỉ còn những đảng viên già nua, bệnh hoạn, bẩn thỉu chân tay lập cập với những thứ “vũ khí” đã lỗi thời: dối trá, bạo lực và những thủ đoạn vặt vãnh kiểu như cắt điện thoại, xem trộm thư, ném đá vào nhà, nhìn lỗ khoá…
Cái chiến thuật “cổ điển” như “chối bai bải” hay dùng “lưỡi gỗ” chỉ còn mang lại những tác dụng ngược vì những Cò Đùm hôm nay đã chuyển dịch được những tài liệu viết về dân chủ (từ những web site viết bằng ngoại ngữ) và “phóng ngược” lên “internet” cho mọi người cùng đọc, đã viết được những bài phân tích sâu sắc và chính xác về thảm trạng của quê hương, đã can đảm và trung thực gửi bản điều trần về tình trạng xâm phạm nhân quyền ở Việt Nam đến nhân loại khắp Năm Châu. Và từ khắp bốn phương trời, có vô số những Cò Đùm đang lưu lạc nhưng mắt luôn đăm đăm nhìn về quê mẹ.
Và tôi rưng rưng xúc động khi nghe được những lời nói ôn tồn, chừng mực, trầm tĩnh thể hiện được tấm lòng nhẫn nại, nhân ái, bao dung và độ lượng vô biên của dân tộc Việt qua lời của Cò Đùm Nguyễn Vũ Bình – khi anh trả lời phỏng vấn của đài BBC vào hôm 15 tháng 6 năm 2002:”Vấn đề mà tôi đặt ra là chờ đợi sự thay đổi của Đảng CSVN thì rất khó khăn và tôi cho rằng Đảng CSVN không thể làm nổi. Cái đơn giản nhất cho xã hội mà họ còn có thể làm được hiện nay là cho phép hình thành lực lượng đối lập để lực lượng này kiểm tra, giám sát và làm đối trọng quyền lực… Trên cơ sở đó tôi đã làm đơn xin thành lập một đảng như thế…”
Tôi cũng hy vọng (mỏng manh) những người đang cầm quyền ở Việt Nam còn đủ chút lý trí để nhìn ra được vấn đề “như thế”, trước khi quá muộn.
Tưởng Năng Tiến
CHÀO Y BION
If we have no peace, it is because we have forgotten
that we belong to each other.
Mother Theresa
“Buôn đẹp như một bức tranh với 36 mái nhà sàn xếp hàng đối xứng bên con đường đất pha cát mịn màng. Bao quanh buôn là cánh rừng già kèm theo dẫy núi Ch Pá… Bước đến Buôn Um là chạm vào chân rừng, gặp không khí mát dịu, nghe tiếng chim lảnh lót ríu ran muôn điệu và cả tiếng suối róc rách. Nhìn lên rừng xanh um, tầng tầng lớp lớp thâm nghiêm. Nhìn xuống thung lũng cuối buôn thấy mượt mà lúa nước… Buôn Um có từ lâu lắm rồi, từ thời cây rừng trên núi Ch Pá mới to bằng thân người. Đến giờ cây đã to bằng năm, bằng bẩy thân người chập lại. Ở đâu phá rừng làm nương làm rẫy, mặc họ, còn ở Buôn Um dân làng từ thời trước cả thời ông bà, đến thời con cháu bây giờ đã nói với nhau lời thề giữ cánh rừng nguyên vẹn. Những khi cần đất làm rẫy, bà con chỉ dám đốt những khoảnh đất cỏ tranh, vài đám rừng bụi lúp xúp...”
“Nhưng câu chuyện về cánh rừng Buôn Um đã chuyển qua một hồi khác, với một số phận khác. Đó là năm 1999, cánh rừng Ch Pá đang yên ả, xe máy từ đâu ầm ầm kéo tới. Xí nghiệp khai thác chế biến lâm sản K. ủi đường vào rừng khai thác gỗ. Dân làng ngơ ngác…” (http://www.vov.org.vn/2002_03_vietnamese/xahoi.htm).
Nạn lâm tặc, cướp rừng, không chỉ xẩy ra ở Ch Pá. Người dân ở buôn Um cũng không phải là những kẻ duy nhất bị bức hiếp và đẩy đến chân tường. Con giun xéo mãi cũng oằn. Cuối cùng, vào tháng 2 năm 2001, hàng vạn người dân miền núi đã phải đứng dậy bầy tỏ thái độ bất bình của họ với nhà đương cuộc Hà Nội.
Thay vì xét lại chính sách hà khắc cùng thái độ ngang ngược của mình, đảng Cộng Sản Việt Nam (với bản chất hung ác và xấc xuợc cố hữu) đã đàn áp, săn đuổi, bắt giữ và tra tấn nạn nhân. Những người tham dự vào những cuộc biểu tình hồi tháng 02/01 bị “đấu tố” bằng cách ép buộc đứng nhận tội trước làng và thề sẽ thôi liên lạc với người bên ngoài cũng như sẽ từ bỏ tôn giáo của mình [Villagers who had participated in the February 2001 demonstrations were forced to stand up in front of their entire village and local authorities to admit their wrongdoing, pledge to cease any contacts with outside groups, and renounce their religion – Vietnam’s Repression of Montagnard (Human Rights Watch Press, New York, April 23, 2002].
Tình thế đã khiến cho nhiều người phải bỏ chạy khỏi Việt Nam. Y Bion, một chàng trai trẻ của núi rừng Cao Nguyên Trung Phần, đã lìa bỏ quê hương bản làng trong hoàn cảnh đó. Y Bion cùng với 905 người khác nữa (trong số này có một em bé mới sinh trên đường đi chuyển từ trại tị nạn Mondokiri về Phnom Penh) đã được chấp thuận định cư ở Hoa Kỳ.
Sau một thời gian bỡ ngỡ, rồi (chắc) Y Bion cũng sẽ học được một cái nghề, kiếm được một việc làm, tạo dựng được một mái ấm gia đình nho nhỏ, và sống một cuộc đời an bình – như bao nhiêu thế hệ di dân khác đã đến sống (và chết) ở đất nước này.
Mảnh đời tị nạn của Y Bion, dù bình thường và tầm thường đến thế, vẫn là niềm ước mơ xa vời (vượt tầm tay với) của hàng triệu triệu người dân Việt khác – bất kể thuộc sắc dân nào, đang sống (và chết dở) ở Việt Nam. Nhưng hoài vọng của Y Bion không dừng ở đó. “Đời sống Mỹ thì tốt vào lúc này. Nhưng nếu chúng tôi đi Mỹ, sau đây mọi người sẽ quên khu vực Tây nguyên và những gì xẩy ra ở đó. Tôi thì không bao giờ quên. Khi vùng Tây Nguyên được tự do, tôi sẽ quay về”. Y Bion đã trả lời với phóng viên của hãng Reuter như vậy, khi được hỏi về dự tính của mình cho tương lai (”Người Thượng Sẽ Đi Mỹ Định Cư Nhưng Trở Về Khi Quê Hương Tự Do,” Người Việt, Westminster, California, 2 tháng 5 năm 02).
Y Bion không phải là người Việt tị nạn đầu tiên (hay cuối cùng) đến Mỹ. Anh cũng không phải là người duy nhất (vừa bước chân đi) đã ôm mộng trở về xây dựng lại quê hương. Tâm sự của Y Bion, chắn chắn, đã làm nao lòng rất nhiều người – những người mà vào đầu thập niên 1980, khi phong trào vuợt biển tìm tự do lên đến điểm cao nhất, cũng đã cắn răng rời bỏ quê hương, và cũng đều đã nhủ lòng rằng: “mai này chúng ta cùng về Việt Nam”. Từ đó đến nay, hàng triệu người đã “cùng về Việt Nam” nhưng phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, đều chỉ về … chơi!
Tôi nghĩ làø Y Bion đã nói đến chuyện trở lại cố hương với một ý hướng tử tế hơn như thế. Tôi cũng tin rằng khi về tóc của Y Bion vẫn hãy còn xanh. May mắn hơn những kẻ đã bỏ đi một hai thập niên về trước, ngày về của Y Bion không còn phải là một ước vọng xa vời nữa. Sự băng hoại của chế độ hiện hành ở Việt Nam đã đến giai đoạn cuối.
Vật cùng tất biến. Tuy vậy, sự việc không nhất thiết sẽ diễn biến theo chiều hướng an bình và tốt đẹp – nhất là ở vùng Cao Nguyên Trung Phần, nơi Y Bion đã mở mắt chào đời, và cũng là nơi mà:“ chỗ đứng của người Thượng trong lòng dân tộc Việt Nam chưa có đáp số” (Nguyễn Văn Huy, “Tìm Hiểu Nguyên Nhân Những Cuộc Nổi Dậy Của Người Thượng Trên Cao Nguyên Miền Trung,” Người Việt, 11 April 2001,B2). Nếu đúng thế, viễn tượng “mai này chúng ta cùng về Việt Nam” để xây dựng lại quê hương e sẽ có lắm gian nan và trắc trở.
Chiều ngày 3 tháng 6 năm 2002, đài Phát Thanh Á Châu Tự Do
loan báo:” Tin tức xuất phát từ Cambodia cho biết, toán người Thượng Việt Nam tị nạn đầu tiên đã rời thủ đô Phnom Penh hồi chiều hôm nay để lên đường sang Hoa Kỳ định cư. Tin tức cho biết toán đầu tiên gồm 50 người, sẽ đến Los Angeles vào sáng sớm mai, tính theo giờ Việt Nam, và ở lại đây trong vòng 3 ngày trước khi về bang North Carolina định cư.”
Y Bion, rất có thể, sẽ là một trong năm mươi người đầu tiên đặt chân đến Mỹ. Ở Hoa Kỳ có hai tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của những người sắc tộc ở VN. Tổ chức thứ nhất có tên là Montagnard Foundation, Inc. Trụ sở đặt tại South Carolina – do ông Ksor Kok, người sắc tôc Gia Rai, đứng đầu. MFI chủ trương lập quốc, tách hẳn Cao Nguyên Trung Phần ra thành một quốc gia biệt lập:
Đây cũng là đòi hỏi của tổ chức BAJARAKA (tên viết tắt của bốn sắc dân Bahnar, Jarai, Rade, and Kaho – tiền thân của Fulro) kể từ năm 1957 (The goal of the BAJARAKA was to have a separate nation with its own administration and army. What it really means is the independence for Degar peoples – http://montagnard-foundation.org/bajaraka.html).
Tổ chức thứ hai có tên là Montagnard Human Rights Organization, thành lập năm 1998, có trụ sở ở North Carolina, do hai ông Y Bhuat Eban (chủ tịch) và Nay Rong (phó chủ tịch) lãnh đạo. MHRO có chủ trương ôn hoà và nhân nhượng hơn: đấu tranh trường kỳ bằng những phương thức bất bạo động cho đến khi nhà đương cuộc Hà Nội thừa nhận và thoả mãn những đòi hỏi sau đây:
1. Chấp nhận người Thượng là chủ nhân chính thống và hợp pháp của vùng Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam vàø quyền tự trị của vùng đất này, như đã được thừa nhận bởi nước Pháp vào ngày 27 tháng 5 năm 46.
2. Tôn trọng quyền tự quyết, độc lập, tự do và chủ quyền lãnh thổ của người dân Thượng.
3. Công nhận những quyền căn bản của người Thượng, như đã được bảo đảm bởi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền do đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948.
(The MHRO will carry out a long-term struggle in peaceful means until the Hanoi government recognizes and satisfies the following demand:
1. To recognize the Montagnard people as the legal and rightful owners of the Central Highlands of Vietnam. And to recognize the autonomy granted to the Montagnard people by the French on May 27, 1946.
2. To respect the right to self-determination, independence, freedom and territorial sovereignty of the Montagnard people.
3. To recognize the basic rights of the Montagnard people that are guaranteed by the Universal Declaration of Human Rights proclaimed by the General Assembly of the United Nations on December 10, 1948 – http://www.mhro.org/)
Montangard Foundation Inc. là động lực chính của biến động 02/01, một biến động lớn nhất ở Việt Nam kể từ khi người cộng sản cướp được chính quyền. Về phiá Montagnard Human Rights Organization, họ đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình ở Washington D.C. và New York vào năm 2001 để phản đối chính sách man rợ của nhà cầm quyền Việt Nam đối với người dân bản địa. Sau đó, họ đã thành công trong việc vận động chính giới Hoa Kỳ để những người tị nạn ở Cao Miên (sau biến động 02/01) được phép định cư ở Mỹ.
Tôi e rằng Y Bion không hề biết đến những tổ chức vừa kể, cũng như chủ trương, và những hoạt động của họ. Hầu hết người Việt (có lẽ) cũng đều như thế. Chỗ đứng của “đồng bào” Thượng trong lòng người Kinh chưa có đáp số, đã đành; chuyện khó đành hơn là (dường như) cũng không mấy ai bận tâm xem là họ sẽ “đứng”, “nằm” hay “ngồi” ra sao cả. Cứ làm như thể họ không hề hiện hữu vậy; hoặc giả, nếu có, cũng chỉ là “chuyện nhỏ thôi”!
Cho đến nay, theo như tôi biết (và tôi cầu mong rằng sự hiểu biết của mình hoàn toàn sai sót), Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là tổ chức duy nhất ở hải ngoại có đề cập đến vấn đề chủng tộc, trong Dự Aùn Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên của ho – xin tóm gọn, như sau:
“Đất nước ta tuy cĩ một lịch sử dài nhưng lại là một đất nước mới. Miền Trung mới hội nhập xong từ the kỷ 17, miền Nam từ thế kỷ 18. Nước ta đã tiếp nhận rất nhiều đĩng gĩp mới về đất đai và chủng tộc. Tuy vậy tổ chức của ta lại khơng thích nghi với những thay đổi đĩ và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất: cộng đồng người Kinh…”
Trong suốt dịng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuơn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này nếu khơng được nhận định rõ rệt để kịp thời cĩ chính sách thỏa đáng cĩ thể dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nhiều quốc gia đang và sẽ cịn phải khốn đốn vì những cuộc nổi dậy cuồng nhiệt của các sắc tộc ít người vùng lên địi bản thể. Nếu chúng ta khơng cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn của đất nước là miền Thượng Du phía Bắc và miền Cao Nguyên Trung Phần cĩ thể trở thành bất ổn và khơng phát triển được.”
“Các cộng đồng đều phải được tơn trọng như nhau trong một đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các cộng đồng… Cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn xưa tại miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa đã gĩp cơng lớn khai mở ra miền Nam phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc.”
“Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hẳn ý đồ đồng nhất hĩa để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định rằng đất nước Việt Nam khơng được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung…”
“Lịch sử Việt Nam cũng phải được xét lại và được coi như lịch sử của các sắc dân đã hợp lại để tạo thành đất nước Việt Nam…”
[“Thành Công Thế Kỷ 21” (Dự A1n Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên) Paris 2001, trang 58 &59].
Tôi thiệt mát lòng mát dạ vì những đoạn văn in nghiêng vừa trích dẫn, dù tự thâm tâm chưa dám mong mỏi đến chuyện mọi con dân sống trên đất Việt “phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc”. Chuyện “tình cảm”, để đó, tính sau. Nguời ta “nhìn nhau” hoặc “coi nhau” ra sao còn tuỳ vào “kích thước”, nghĩa là “tầm nhìn”, của từng cá thể. Nhưng ở bình diện quốc gia, và về phương diện pháp luật thì mọi người người phải được đối xử tuyệt đối bình đẳng, không phân biệt tuổi tác, phái tính, tôn giáo, địa phương, quá khứ hay sắc tộc gì ráo.
Từ lâu, nhiều nước trên trên thế giới đã tạo lập được đời sống ổn định và phú túc cho dân chúng nhờ vào ý niệm bao dung và khai phóng như thế- khi đặt mọi nền móng để xây dựng quốc gia của họ.
Tại sao người Việt (nhất là những kẻ đã có dịp sống ở ngoại quốc) không học hỏi được điều này từ những bài học đó? Tại sao đến hôm nay người Việt (bất kể Kinh/Thượng) phải trở lại với cái ý niệm “tự trị”, và những phân định của người Pháp – từ tiền bán thế kỷ XX – về một vùng đất mà họ phân định là P.M.S.I. (Pays Montagnards du Sud Indochinois) hay gì gì đó. Đó chả qua là sách lược chia để trị, tiện lợi cho họ, vào thời điểm cũ mà thôi. Sao cứ nghe đến người Pháp và những phần đất được gọi là Bắc Kỳ, Trung Kỳ hay Nam Kỳ Tự Trị …là tự nhiên tôi muốn … ói!
Tôi cũng không tin rằng thành lập một quốc gia riêng ở Cao Nguyên
Trung Phần, với dân số vài trăm ngàn người, bao gồm hơn bốn mươi săc dân riêng biệt (Bahnar, Jarai, Rhade, Koho, Sedang, Bru, Pacoh, Ktu, Jeh, cua, Halang, Hre, Rongao, Monom. Roglai, Cru, Monong, Lat, Sre, Nop, Maa, Stieng, ect…), giữa một vùng đất không có đường thông thương với thế giới bên ngoài là một giải pháp thực tế và khả thi – ít nhất thì cũng trong hoàn cảnh hiện tại. Điều này cũng không mang lai lợi ích thiết thực (cho bất cứ ai) mà chỉ có nguy cơ tạo ra bất ổn và chiến tranh, nhất là nội chiến.
(Con người vốn không thích hoà bình mà chỉ thích chấm dứt chiến tranh. Điều này đúng cho toàn thể nhân loại ở mọi nơi và mọi thời, trừ dân tộc Việt – ở thế kỷ này. Người Việt đánh nhau, giết nhau, chửi nhau, cư xử tàn tệ với nhau … như vậy đủ rồi. Stop it!)
Tôi xin lỗi vì thái độ hơi thiếu tự chế của mình qua những giòng chữ (chuyên chở quá nhiều xúc cảm) như vừa viết. Chả qua vì tôi đã thất vọng quá, thất vọng não nề, và thất vọng đến cùng cực về cách mà dân Việt (nói chung, chứ chả riêng chi người không cộng sản) cư xử với nhau, nhất là đối với những “đồng bào” kém may mắn của mình – nơi miền sơn cước.
Tôi cũng xin được tha thứ, nếu sai lầm, vì đã không ủng hộ đòi hỏi tự trị hay lập quốc của những cư dân ở Cao Nguyên Trung Phần. Đúng ra, đây là những vấn đề mà thứ thường dân (như tôi) có lẽ không nên lạm bàn. (Chúng sẽ được bàn cãi và đi đến chung quyết bởi quốc hội Việt Nam, mai hậu, với đầy đủ qúi vị dân biểu của mọi sắc dân).
Tuy nhiên, vì đã lỡ bàn (với tất cả chủ quan), tôi đành “bàn” tiếp. Người Thượng chỉ có một chỗ đứng duy nhất ở Việt Nam mà thôi. Họ đứùng ngang hàng với người Kinh và với mọi sắc dân khác trên đất nước Việt. Đó cũng là đáp số duy nhất (đúng) cho bài toán chủng tộc ở Việt Nam.
Chúng ta (có thể) không bình đẳng tuyệt đối trong ánh mắt của nhau nhưng mọi người (bắt buộc) phải tuyệt đối bình đẳng trước pháp luật. Nếu không, tình trạng Việt Nam hậu cộng sản so sánh với hiện trạng (nếu có khác biệt) thì chỉ là ở mức độ – chứ bản chất nó vẫn là cái thứ xã hội xây dựng trên kỳ thị, bất công và áp bức.
K’ Tien
ĐÊM HAVANA VÀ NGÀY HÀ NỘI
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đắng cay như ở đây?
Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.
Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ yêu thương như ở đây?
Mỗi tấc đất có một người qùi gối
Dâng trái tim và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người….
Phùng Quán
Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến thành phố (thổ tả) này. Đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì … chết mẹ.
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ và nghe sao nói vậy. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ làm mích lòng cả đống người. Tôi biết vậy chớ nhưng không thể nào nói khác hơn, vì những điều tôi được nghe kể về Hà Nội (hoàn toàn) không có gì là đàng hoàng hay tử tế – đại khái như:
“Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:
– Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.
– Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”
“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ, Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Trời đất, đó là chuyện từ thế kỷ trước lận – cha nội. Cũ rích cũ rơ rồi, bới móc ra làm chi nữa vậy cà? Bây giờ là thế kỷ 21 rồi mà. Và bây giờ, tôi lại mơiù ghe đây, thiên hạ vẫn than phiền rằng Hà Hội cũng cứ (mẹ rượt) y trang như hồi đó – không khác gì hết trơn hết trọi:
“Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….”
“Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa hế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện “chủ nghĩa xã hội ưu việt” trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này”(Bùi Bích Hà, “Nhìn Lại Quê Hương,” Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).
Phạm Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, cù bơ cù bất, ở tận đâu đâu lận. Cả hai chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi. Biết (khỉ mốc) gì đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?
Nguyễn Huy Thiệp thì khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của Hà Nội (nói riêng) và của cả nước Việt (nói chung). Ổng cóù dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô (mến yêu) của mình. Trong tác phẩm Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu (vừa xuất bản), nhà văn Nguyễn Huy thiệp đã mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau: ”Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.”
Ý, trời đất, qủi thần, thiên địa (mèng đéc) ơi! Giữa Thời Đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong lòng thủ đô Hà Nội – nơi mà cách đây chưa lâu khối người vẫn còn phải nhai rón rén khi ăn – mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ) như vậy thì kể như là … hết thuốc!
Và Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) trên thế giới này. Tôi nghe kể là thủ đô của Cuba cũng tồi tệ, và bệ rạc không kém:
“Ở La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xã hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền xanh, bên cạnh thế giới mệt hoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về một cái ngân phiếu” (Trần Công Sung,” Cuba Sí, Cuba No,” Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).
Đó cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt – bây giờ. Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh) tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả hai đều đã tin tưởng rằng sẽ dành lại được độc lập và tự do bằng con đường … cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở và chết dở trong lòng cách mạng.
Ví von mà nói thì Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem song sinh, trong một gia đình khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải lòng đúng đồ phải gió nên đãõ trao duyên lầm … tướng cướp!
Havana, tuy thế, vẫn còn “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào lúc có mặt trời – theo lời của Trần Công Sung:
“Đêm xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở những khu bình dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có tiếng nhạc, giọng hát…”
Và vẫn theo như nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana “có một cái gọi là
cái hồn” (“une âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi còn tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ Nghĩa Xã Hội (đang sắp sửa “chuyển qua từ trần”) ở đất nước này.
Hà Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng đang thở hắt ra ở Việt Nam. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đã đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả. Tình trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn nhiều, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích Hà – qua bài báo thượng dẫn: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế xa xút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.”
Cách đây không lâu, khi được hỏi “phải hình dung thế nào về văn hiến Thăng Long”, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: “Gần đây có một vị viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng.” (http://www.talawas.org/hanoi/hanoi01.html ).
Nghe mà … hết hồn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ thứ 16 mà khí phách và hồn phách vẫn còn lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy của người dân – dù nơi đây công an nhiều không kém quân Nguyên. Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật, lẫy lừng cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền và bạo lực (có vài chục năm) mà đã “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” thế sao?
Tôi không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực đã hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng họ chưa bao giờ thực sự nhìn ra được cái hồn của đất Thăng Long, đừng nói chi đến chuyện “đụng” được tới nó.
Mới đây, do tình cờ may mắn, tôi đã thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn nhà nhỏ – ở ngõ Aùnh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái – của một người đàn bà tên Sợi. Chị Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngõ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.
Chi Sợi bán hàng không đủ thu nhập để nuôi mình, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ chết nên – cũng có lúc- buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống cấp” của người đàn bà đã quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách hàng duy nhất: đám ăn mày. Và mảnh đời bầm dập, te tua, tàn tạ của chị Sợi đã được kể lại như sau:
“Trong số Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi. …
“Sau khi yêu nhau bên những tấm ván quan tài còn để mộc và chưa ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại trò chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh tật của bà cụ, công việc của chị, còn chị thì ngắm nghía cái chân khoèo của anh, cái chân mà chị biết rằng trước đây nó cũng lành lặn, bình thường như cái chân bên kia, chỉ vì giả què lâu quá, nên đã thành què thật.
“Anh đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.
“ Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
“Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi …
“Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. Aùn xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.
– Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.
“Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
– Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
“Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.
– Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
“Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.”
……
“Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói:
– Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết”.
“Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!
“Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
– Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
– Em biết quê bà ở đâu mà tìm?
– Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.
“Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”
Chị Sợi, anh què – cũng như bà Mít – cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi hát hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập ngụa phân người giữa lòng Hà Nội. Chính ở những nơi tăm tối này, họ đã dấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân tộc qua từng nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn như thế, khi viết những dòng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt Nam đến nửa vòng quả đất.
Sau khi đọc xong “Truyện Không Tên”, tôi hỏi tìm số điện thoại của tác
giả và gọi cảm ơn ông đã mở cho tôi thấy cái hồn của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự – thế thôi.
Chị Sợi, anh què vẫn còn đang sống ở Hà Nội. Qúi vị có thể đọc nguyên văn
câu chuyện về cuộc đời của họ hoặc trong tuyển tập Truyện Ngắn Bùi Ngọc Tấn do nhà Hải Phòng xuất bản năm 2003.
Tưởng Năng Tiến
* Những hình ảnh Hà Nội do Nguyễn Tấn Lộc post @ http://nguyentl.free.fr/cadre_sommaire_vn.htm
Gẫy Súng Và Gẫy Viết
Một lời tử tế làm ấm lịng nguời suốt cả mùa Ðơng.
Ngạn ngữ Nhật Bản
Tháng 3 năm 1975, lúc đang còn ở lứa tuổi đôi mươi, khi khổng khi không, ông Cao Xuân Huy – một cựu sĩ quan của binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến, thuộc Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà – giã từ vũ khí. Bỏ súng đạn, dù ở vị thế của một kẻ chiến bại, để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã triền miên tàn phá quê hương đất nước, không chừng, cũng là kỳ vọng hay ước mơ tiềm ẩn của trung uý Cao Xuân Huy (nói riêng) và của cả nước (nói chung).
Sau đó ( theo như lệnh của những người thuộc phe thắng trận) ông Cao xuân Huy cầm cuốc, cuốc tới tấp, cuốc túi bụi, cuốc không ngừng, cuốc tưng bừng, và cuốc liên tục (rất nhiều năm) trên những thửa đất … vô phương canh tác – ở nhiều trại cải tạo khác nhạu Ðiều này, dường như, không nằm trong ‘’ dự kiến ‘’ của cả nước (nói chung) và ‘’học viên’’ Cao Xuân Huy (nói riêng).
Cây cuốc, một nông cụ rất hữu ích và phổ biến kể từ khi loài người bắt đầu đời sống định canh cho đến hết Thời Trung Cổ, nếu được tận dụng và thiện dụng, trong điều kiện đất đai và thời tiết lý tưởng – may ra – mới có thể mang lại vừa đủ cơm áo cho chính bản thân người sử dụnng. Còn dùng thứ cuốc do tập thể làm chủ, bằng hình thức lao động cưỡng bách, trong điều kiện làm việc khắc nghiệt, trên những nông trường quốc doanh, theo những kế hoạch kinh tế cứng rắn và hoang tưởng, vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi… thì chỉ là một sự phí phạm nhân lực vô cùng tai hại và đáng tiếc– nếu nói một cách bao dụng Nói cách khác, chính xác hơn, đây là một phương cách trả thù hèn hạ đê tiện của những kẻ tiểu tâm.
Bởi vậy, sau khi rời trại cải tạo, ông Cao Xuân Huy đã không đến những vùng kinh tế mới để tiếp tục cuốc cầy – theo ý muốn của những người thuộc phe thắng trận Ông bỏ đất nước ra đị Nơi những vùng đất tạm dung, ông Cao Xuân Huy (ddương nhiên) được thừa nhận là một người tị nạn Lý do : « Nơi ông rời bỏ, nếu cái cột đèn có chân nó cũng không thể ở » – và nơi đó, ngoài lũ cột đèn, vẫn còn vài chục triệu người ngậm đắng nuốt cay ở lại để bảo đảm cho cái căn cước tị nạn chính trị của những kẻ ra đi!
Tháng 3 năm 1975, không phải chỉ có một mình trung uý Cao Xuân Huy bỏ sụng Sau đó, ông ta cũng không phải là kẻ duy nhất bỏ đị Ông Huy chỉ là một trong hàng triệu triệu dân Việt, trong cơn quốc biến, hốt hoảng, ù té, bỏ chạy ; rất nhiều người đâm xầm ra biển, lênh đênh, tứ tán, phiêu bạt khắp bốn phương trời.
Giữa ông Cao Xuân Huy và phần lớn những người Việt tị nạn cộng sản khác chỉ có một chút dị biệt nho nhọ Sau khi bỏ súng, bỏ cuốc – thay vì cầm kìm, cầm búa hay một dụng cụ nhẹ nhàng nhưng thiết thực nào khác để kiếm sống nơi quê người đất khách – ông Cao Xuân Huy (thương ơi !) lại vớ ngay cây bút, một vật dụng mà hiệu quả trong việc mưu sinh vô cùng giới hạn và vẫn thường gây vô số chuyện phiền lòng (nếu không muốn nói là’’ tai nạn ‘’) cho khổ chủ!
Ông Cao Xuân Huy trở thành một nhà văn lưu vong (ddương đại), nếu nói một cách nghiêm trang, và nói theo kieư…thời trang, của thời hiện đại Ông ta chính là tác giả cuốn Tháng Ba Gẫy Súng – một tác phẩm được nhiều người tìm đọc (và đã khiến không ít kẻ ngậm ngùi) vì nội dung giản dị nhưng chân thật và bi tráng của nó về cái chết oan ức, tức tưởi của một đạo quân thiện chiến.
Cùng lúc, nhà văn Cao xuân Huy còn tích cực góp phần vào nhiều sinh hoạt văn hoá khác nựa Có thời ông đã từng là tổng thư ký của tạp chí Văn Học, một tạp chí được tiếng là uy tín và danh giá – dù chưa bao giờ nó có khả năng trả nhuận bút hay thù lao cho bất cứ ai, kể cả chủ bút và chủ nhiệm Hiện tại, ông Huy đang cộng tác với nhật báo Người Việt (tờ báo bề thế nhất của người Việt tị nạn) và là Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – Nam California.
Phần đời tị nạn của ông Cao Xuân Huy – xem ra và trông xa – có vẻ hiển đạt Trong thực tế, dường như, ông ta không thành công gì cho lặm Những chức tước hay địa vị (nhà văn, nhà báo, tổng thư ký, chủ tich…gì gì đó mà ông Cao Xuân Huy đã có can đảm nhận lãnh) và những công việc liên quan đến chúng – như đã thưa – đều mang lại rất ít, hoặc chả có tí ti lợi nhuận nào.
Theo như cách nói của đời thường, ông Cao Xuân Huy là một người ưa vác ngà voi – một việc làm chỉ có khả năng mang lại cho chủ thể sự phong phú thuần tuý về phương diện…tinh thần, nếu mọi chuyện diễn biến bình thường hay tốt đẹp!
Còn nếu xét toàn thể, khách quan mà nói, cuộc đời của ông Cao Xuân Huy hoàn toàn không suôn sẻ . Ông cầm súng, súng gậy Ông cầm cuốc, cuốc cọng Và sự nghiệp cầm bút của nhà văn Cao Xuân Huy, với tư cách là Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút – Nam California ( nếu nhích chút xíu vào chi tiết), cũng không ít chuyện não lòng.
Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại mà ông Cao Xuân Huy là một thành viên có đến hai vị chủ tịch và chia làm hai hệ phái hay phe phại Cả hai đều quyết liệt phủ nhận lẫn nhau, và đều không được Văn Bút Quốc Tế thừa nhận.
Nói cách khác, hiện tại, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại có mà như khộng Nó ở tình trạng tạm thời không hiện hữu (temporary non existence). Và nó sẽ biến mất vĩnh viễn, ‘’ nếu không có sự dàn xếp kịp thời – nghĩa là, nếu chúng tôi không thể thông báo một cách chắc chắn đến Hội nghị Ðại biểu họp tại Moscow , vào tháng 5 năm 2000, là đã có giải pháp ổn thoả cho vấn đề (?) thì tôi tin chắc rằng Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại sẽ bị giải tán vào kỳ họp tới ở Manila vào năm 2001…”– theo như văn thư đề ngày 13 tháng 12 năm 1999 của ông Terry Carlbom, Tổng Thư Ký Văn Bút Quốc Tế, gửi đeấn nhị vị Chủ Tịch Của Văn Bút Việt Nạm (…if an early settlement is not reached – that is, if we can not reliably inform the Assembly of Delegates in Moscow, in May 2000, that the problem is well on the way to solution ? I am quite sure that the Centre will be đisolve at the Assembly of Delegates in Manila in 2001…).
Như thế, nhà văn Cao Xuân Huy (thành viên chủ lực của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút – Miền Nam California) sẽ có nguy cơ bị gẫy bút trong những ngày tháng tới.
Một phần tư thế kỷ trước, trung uý Cao Xuân Huy (và đồng ngũ) vì gẫy súng đã mang đến thảm hoạ cho nửa phần đất nước mà họ được ‘’giao khoán’’ cho nhiệm vụ phải bảo vệ Sau đó thêm nửa phần dân Việt phải chịu đoạ đầy, và vài triệu người phải sống tha hượng Hậu quả cay đắng này vẫn đang là đề tài tranh cãi giữa những nạn nhân của nó.
Người ta vẫn cố tìm cho bằng được thủ phạm của sự thất bại thê thảm và nhục nhã nạy Nó thê thảm và nhục nhã đến độ không ai muốn hoặc dám nhận lỗi (dù chỉ một phần) về phía mịnh Mọi người đều tìm cách đổ lỗi cho tha nhân, cho phe nhóm khác, cho tôn giáo khác, cho đảng phái khác, cho người bạn đồng minh bất nghĩa, cho đám lãnh đạo bất tại Chung cuộc, ‘’thủ phạm ‘’ vẫn không được nhận diện nhưng không khí nghi kỵ và hận thù bao trùm khắp cả mọi nơi, và sự phân hoá trong cộng đồng thì kéo dài triền miên từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.
Hai mươi lăm năm sau, sau khi gẫy súng, nhà văn Cao xuân Huy (và đồng nghiệp) có nguy cơ sẽ làm gẫy bụt Chuyện này, đã và đang được tiếp tục tranh cãi ( giữa những người trong cuộc) với cùng một tinh thần và phương cách tương tự như về chuyện gẫy súng hai mươi lăm năm trước – nghĩa là (theo như dư luận) sẽ có rất ít hy vọng nhìn thấy ‘’ánh sáng cuối đường hầm”.
Khác với chuyện gẫy súng, nguyên do của việc gẫy bút có phần giản dị và dễ tìm hợn Ông Tổng Thư Ký Văn Bút Quốc Tế, trong văn thư dẫn thượng, đã đề cập đến sự ‘’tranh chấp nội bộ ‘’ (internal disputes) như là nguyên do chính dẫn đến việc Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại phải tạm ngưng hoạt động từ hai năm quạ Nếu một lời tử tế có thể làm ấm được lòng người suốt cả mùa Ðông, theo như tin tưởng của dân tộc Nhật, thì sợ là đã nhiều mùa Ðông qua nhưng những thành viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – của cả hai phe – chưa bao giờ gửi đến nhau một lời tử tệ Có chăng (e) chỉ là lời qua tiếng lại, tiếng bấc tiếng chì mà – đôi lúc – khiến cho kẻ bàng quan cũng phải cau mày vì nội dung vô cùng khiếm nhã của chụng Hậu quả, như đã thưa, có thể dẫn đến việc Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại sẽ ngủ giấc ngàn thu.
Cũng có dư luận cho rằng nếu bút viết chỉ được dùng vào việc bới móc hay vẩy mực (vào mặt lẫn nhau) thì nếu gẫy cũng đâu có gì đáng tiệc Nói như thế e phũ phàng và giản lược quá chăng ? Sự cáo chung của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nếu xẩy ra, e còn là dấu hiệu chẳng lành cho cả một cộng đồng – chừu chả riêng chi cho những thành viên của nọ.
Khi một cá nhân thất bại trong việc học hỏi từ kinh nghiệm, luôn tìm cách đổ thừa mọi lỗi lầm cho kẻ khác, thường xuyên sống trong tâm trạng oán hận, không có khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách ôn hoa…là họ có đủ những triệu chứng bất ổn về phương diện sức khoẻ tâm thân.
Ở bình diện tập thể, khi một nhóm người, một cộng đồng, một dân tỗc…cung có những hội chứng tương tự (giữa lúc nhân loại đang có xu hướng tiến dần tới một nền văn hoá cách toàn cầu, vào Thời Ðại Thông Tin) thì dù lạc quan cách mấy cũng nên cứu xét – khẩn cấp và nghiêm chỉnh- đến khả năng thích nghi để sinh tồn của họ, trước khi quá muộn !
Giữa những người đồng hương, đồng bào, đồng cảnh và cùng chiến tuyến (như vẫn thường tự nhận) – sao lại có thể tiếp tục sống bên nhau với tinh thần phân hoá, nghi ngại, đố kỵ và thù hận mãi mãi như thế được ?
Và công tâm mà nói, cũng không ai có quyền làm như vậy đậu Vì ngoài lũ cột đèn (không có chân nên không đi được) còn còu vài chục triệu con người khác nữa, dù có chân vẫn phải ở lại quê nhà – như những con tin – để bảo đảm với nhân loại về tư cách tị nạn của những kẻ đã ra đị Như thế, rất khó biện minh cho việc tự động đánh tráo căn cước tị nạn của mình để nghiễm nhiên trở thành du khách về ‘’tham quan’’ quê hương xứ sở – hàng năm.
Tương tự, không một người tị nạn chính trị nào (kể cả những nhân vật ‘’ lãnh đạo cộng đồng ‘’ hay những văn thi sĩ ‘’hướng dẫn dư luận’’) có lý do gì để tự nhiên biến mình thành những kẻ côn đồ quanh năm suốt tháng chỉ chăm lo và say mê có mỗi một việc là đánh đấm cấu xé lẫn nhau – nơi quê người đất khách.
Trong ‘’ Thơ Ngỏ Ngày 20 Tháng 2 năm 200 : Kính Gửi Toàn Văn Hữu Và Hội Viên VNVNHN Của Ðặng Văn Nhâm ‘’, một trong hai vị Chủ Tịch của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, có câu kết luận toäi nghieäp như sau : ‘’Tôi mong ước quí văn hữu kể cả trong và ngoài hội, nếu thấy cần làm gì cỏn con hay nói lên lời tối thiểu nào của lương tri, của lòng trắc ẩn, để giúp sức cứu nguy chính đáng và kịp thời cho văn bút xin quí vị hãy tự động và tuỳ nghi…’’
Dù văn thư vừa dẫn không gửi đến những người dân thường, trong tinh thần trách nhiệm chung (và còn nước còn tát), hy vọng những ý kiến thô thiển vừa được giải bầy vẫn sẽ được sự lưu tâm – với sự bao dung – của nhị vị Chủ Tịch, tất cả thành viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, những vị thức giả, và những nhân vật lãnh đạo cộng đồng.
Hy vọng quí vị sẽ có thể ngồi lại được với nhau, cùng nhau đối thoại với sự tương kính và chân thật để tìm được những giải pháp khả thi cho những bế tắc hiện tại Nếu chỉ vì thiên kiến, vì tự ái, vì một chút hư danh hay chỉ vì “hà tiện” gửi đến nhau đôi lời đàng hoàng tử tế …mà nỡ tung hê mọi chuyện thì e rằng ngay lũ cột đèn ở Việt Nam – nếu chúng có ruột – chắc cũng phải đau.
Tưởng Năng Tiến
SAO KHUÊ
“Một ngày phiên chơ,ï u tôi mua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng thảm thương, ai oán!”
Đó là một đoạn văn ngắn, trong tập truyện O Chuột, của Tô Hoài mà tôi đã được cô giáo đọc cho nghe – khi còn thơ ấu. Tôi tin rằng mình vừa ghi lại đúng nguyên văn, nếu không hoàn toàn đúng thì chắc cũng gần đúng (y) như thế. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà nhỏ côi cút đó, và có cảm tình hoài với tác giả của đoạn văn dẫn thượng.
Tô Hoài (chắc chắn) sẽ rất sướng, khi biết có một người đọc đã nhớ nằm lòng – suốt đời – những điều mình viết. Và ông ấy sẽ bớt sướng, nếu biết thêm rằng tôi chưa bao giờ đọc thêm một dòng chữ nào khác nữa của Tô Hoài.
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũng không có kế hoạch (lớn – nhỏ) nào phải hoàn thành. Chúng tôi chỉ có việc học với chơi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi mải chơi quá nên không rảnh để đọc Tô Hoài, hoặc bất cứ ai.
Sau khi cuộc chiến Bắc – Nam chấm dứt, tôi có ghé vào những tiệm sách quốc doanh nhiều lần nhưng quên bẵng Tô Hoài. Như bao nhiêu người dân miền Nam khác – sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 – cuộc đời của tôi (bỗng dưng) hoá ra rất rảnh, rất rảnh và rất … đói!
Tác phẩm duy nhất mà tôi tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập. Đây là một cuốn sách rất dầy, giấy in rất tốt, giá rất rẻ và rất được những bà hay những cô bán hàng rong ưa thích. Họ cần giấy để gói, hoặc để chùi, còn tôi thì cần một phần ăn nhiều hơn số tiền túi mình có thể mua. Do đó, dù có đói thảm thiết tôi cũng chả bao giờ xà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôi chịu khó đi (lòng vòng) mua sách, rồi mới mang đổi lấy thức ăn – cho đỡ khổ cái dạ dầy!
Nói tình ngay, lỡõ có thấy những tác phẩm của Tô Hoài – trong hoàn cảnh ấy – tôi chắc mình cũng ngó lơ. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo giác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.
Sau khi đã đi hết biển, khác với nhiều người, tôi quyết định đi luôn – cho nó chắc ăn. Lưu lạc mãi, có hôm, tôi tình cờ gặp lại Tô Hoài – trong một tác phẩm phê bình văn học, tựa là Cây Bút, Đời Người, của Vương Trí Nhàn, xuất bản năm 2002.
Bây giờ thì tôi đủ tuổi đời, đủ rảnh (và cũng đủ no) để có thể tìm đọc thêm chút đỉnh về một tác giả mà mình đã yêu thích – từ ngày còn bé. Và Tô Hoài nay đã thất tuần.
“Ngay từ năm 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng. Lúc đâu ở thời kỳ Mặt trận bình dân, ông hoạt động trong cơ sở Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông. Sau đó lại được tổ chức Đảng ở Hà Nội bắt liên lạc để hình thành nên lực lượng Văn hoá cứu quốc.”
“Tiếp đó, từ sau 1945, những hoạt động xã hội của nhà văn ngày một đa dạng. Triển khai theo chiều rộng, có lúc ông trở thành cán bộ địa phương, có thời gian đi cải cách ruộng đất, đi học trường Đảng, nhiều năm làm đối ngoại nhân dân, đồng thời vẫn giữ chân trưởng ban đại biểu dân phố (1956-1972) ở cơ quan văn nghệ trên Trung ương hay ở Hà Nội, hầu như từ năm 1946 tới nay, khoá nào ông cũng được bầu làm bí thư chi bộ, đảng bộ.”
“Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là ông tác” (sđd 264).
Tiểu sử Tô Hoài (như thế) có vẻ lung tung lang tang, ngổn ngang cả đống chức vụ, nhưng không để lại một ấn tượng đậm nét nào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào những đoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”. Toàn là những công việc chán ngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.
Tôi lầm. Được thế thì đã phước.
Cuộc đời của Tô Hoài chán ngán (hẳn) có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xem ra) không thiếu – nếu vẫn theo như ghi nhận của nhà phê bình văn học Vuơng Trí Nhàn:
“…. bao nhiêu từng trải, như còn in dấu vào cách sống, cách chuyện trò của Tô Hoài hôm nay, bên cạnh cái nhũn nhặn lảng tránh, con người ấy thật cũng đã nhiều phen phải dàn mặt, phải chịu trận, nói chung là phải đối chọi với đời và nếu như có lúc phải đầu hàng thì đó cũng là bước đường cùng, rồi, nín nhịn chẳng qua để tồn tại, và sau hết, để được viết”.
“Aáy là cái điều không chỉ Tô Hoài biết mà nhiều người cũng biết…”
Đại khái có thể hình dung như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy” (sđd 266).
Dù chỉ là một thường dân (chứ chả phải nhà văn hay nhà báo gì ráo), tôi cũng muốn ứa nước mắt xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài – khi biết rằng (đôi lúc) ông vẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vuơng Trí Nhàn chỉ khéo miệng mà nói thế (để đỡ tủi cho nhau) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm được trong “cây bút” và “đời người” (thảm thương) của Tô Hoài!
Đến như Nguyễn Tuân – dù vốn tính bất tuân – khi phải mặc đồng phục, trông cũng rúm ró và thảm hại chả kém gì cái hình ảnh Tô Hoài phải chịu qùi:
”Từ sau 1945, với thiên lương và tinh thần yêu nước sẵn có, Nguyễn Tuân lại nhanh chóng phục thiện, để đứng vào hàng ngũ Cách mạng. Con người chủ yếu ở ông, từ nay, là con người cán bộ, con người chiến sĩ, nghĩa là thành viên của một tập thể có kỷ luật, tập thể ấy phấn đấu cho một lý tuởng nhất định, nên mỗi thành viên trong đó phải làm tất cả để đóng góp cho sự nghiệp chung” (sđd 215).
Cái được mệnh danh là “lý tưởng nhất định” và “sự nghiệp chung” đó là những thứ (thổ tả) gì vậy, hả Giời?
Dù là gì đi nữa, sự “phục thiện” của Nguyễn Tuân cũng đã đuợc đánh giá cao: “Nguời nặng căn như thế, mà đi theo cách mạng, chuyển cũng đã ghê đấy chứ” (sđd 226).
Ghê khỉ gì? Không “chuyển” mà được à? Và chính Nguyễn Tuân biết rõ điều này hơn bất cứ ai : “Tao mà còn sống được đến ngày nay để cầm bút là nhờ tao biết sợ chúng mày ạ” (Xuân Vũ. Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết. Westminster: Người Việt, 1991).
Mà sợ là phải … giá. Thời phải thế, thế thời phải thế. Tránh voi chả xấu mặt nào. Mà cỡ voi thì có gì đáng kể, nếu so với sức mạnh chuyên chính vô sản. Trêu vào chúngï có mà bỏ mẹ; không chừng, còn bỏ mạng luôn ấy chứ.
“Sự dã man qủi quyệt mánh lới và sự bất nhân của họ chưa hề thấy trong lịch sử của loài người” (Nguyễn Mạnh Tường. Kẻ Bị Vạ Tuyệt Thông. Paris: Quê Mẹ, 1977). Sĩ khí đến như Nguyễn Mạnh Tường mà còn phải rấm rứt khóc thầm (bằng tiếng Pháp) thì xá gì cỡ Nguyễn Tuân.
Ở vào hoàn cảnh đó, mới hiểu và thông cảm cho sự cuống cuồng của một người – vốn tính đồng bóng và yếu bóng vía – như Xuân Diệu:
“Xuân Diệu sợ chúng tôi say sưa quá, bốc đồng quá tử vì đạo, rồi không giữ được ngòi bút của mình. Hơn ai hết, ông hiểu về những lưỡi gươm Damoclès thường xuyên treo trên đầu người làm văn nghệ. Khi nói chuyện này đột nhiên giọng ông đột nhiên nhỏ hẳn đi, khe khẽ thì thào. Rồi ông lắc đầu, ông le lưỡi, ý bảo rằng sợ lắm, mà cỡ các cậu thì càng phải nên biết sợ ngay thì vừa, nên nhớ là sau có hối cũng không kịp nữa” (Vương T.N. 295).
Xuân Diệu đã chết. Cái cung cách và thái độ “đột nhiên giọng nhỏ hẳn đi”, “khe khẽ thì thào”, “lắc đầu”, “le lưõi” cũng … chết luôn. Thế hệ của những người cầm bút kế tiếp, không có vẻ gì là hào hứng và sẵn sàng tiếp nhận sự khiếp đảm mà Xuân Diệu muốn truyền đạt cho họ.
Họ không mấy khi “say sưa quá” hay “bốc đồng quá”, như Xuân Diệu lo ngạiï. Không ai “tử vì đạo”, như Nguyễn Chí Thiện hay Phùng Cung. Cũng không ai chịu chơi tới cỡ “không làm nhà” vì “mắc làm người”, như kiểu Hữu Loan. Và hãi sợ thì cũng không luôn.
Những tác phẩm văn học đột ngột xuất hiện và được nhiệt liệt đón nhận, vào thời kỳ cởi trói, không phải là những sáng tác qua đêm. Đó đều là những “nỗi đau” đã đượcï ấp ủ và “chưng cất” – theo như cách nói của thi sĩ Dương Tường (<http://www.talawas.org/tranhluan/tl329.html>).
Đến khi những kẻ nắm quyền đổi ý, muốn trói cả đám trở lại y như cũ, nhiều người đã không chịu đưa tay ra nữa. Trong cuộc Hành Trình Cuối Đông năm 1988, Bùi Minh Quốc và Tiêu Dao Bảo Cự đã thu thập được 118 chữ ký – của giới văn nghệ ở các địa phương – đòi được quyền tự do báo chí và xuất bản.
Không trói được tay thì họ xoay ra cột chân, biến một số tư thất thành lao thất, bằng nghị định 31/CP. Nó ngang nhiên cho phép quản chế hành chánh, không cần xét xử, những người có “hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến an ninh quốc gia, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Nạn nhân sẽ bị quản thúc, công an đến gác nhà, điện thoại bị cắt, ngăn cấm mọi sự tiếp xúc…
Cái xiềng 31/CP đã giam được Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu … nhưng không đút lọt chân ông Trần Khuê. Ông ấy, rõ ràng, quá khổ. Đã (hơi) quá khổ mà còn quá quắt nữa.
Trần Khuê đòi đổi tên Nước, tên Đảng, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đòi Trường Chinh phải xin lỗi ông Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy Vĩng Phú, tác giả của Khoán 10), đòi Tố Hữu phải xin lỗi những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn, đòi Lê Đức Thọ phải xin lỗi những người trong “vụ án xét lại”, đòi lập Hội Chống Tham Nhũng … Nói tóm lại là Trần Khuê không để yean cho bất – cứ – cái – gì và bất – cứ – ai, kể cả những nhân vật được coi là untouchable:
“ Chúng ta đề nghị Tổng cục thống kê và Bộ tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dụ chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn tắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi … Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thê xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo …” (Trần Khuê – Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đối Thoại Năm 2000).
Đến cỡ như bác Hồ (dù đã mồ yên mả đẹp) mà còn bị hạch hỏi đủ điều như thế thì có ai khác mà được không bị … làm phiền. Mọi kẻ có chức quyền, từ Tổng Bí Thư trở xuống – kể cả ông TBT Giang Trạch Dân của nuớc bạn Trung Hoa vĩ đại – đều bị mang ra hỏi tội và chửi mắng (xối xả) vì sự ngu dốt, cũng như tội gian tham – của từng người một!
Sự xuất hiện đột ngột và dũng cảm của ông Trần Khuê và bà Nguyễn Thị Thanh Xuân (*) khiến tôi vô cùng cảm khái.
Như đã thưa, tôi sinh trưởng ở miền Nam. Trong thời gian đất nước chia cắt, tôi đã hụt mất phần văn học xã hội chủ nghĩa của nửa phần đất nước. Khi giang sơn thống nhất, “Nam – Bắc hoà lời ca”, tôi “ca” không nổi nên (bèn) bỏ chạy.
Ở nước ngoài, khi có dịp tìm hiểu về văn học cách mạng, tôi khám phá ra rằng văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc (phần lớn) đều xếp hàng, mặc đồng phục và chịu qùi gối trong thời chiến. Đến thời bình, họ vẫn tiếp tục sống với những cảnh đời hoàn toàn “không như ý muốn”, với niềm an ủi rằng “trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác, thế là được rồi” (Vương T. N. 209).
Vậy mà nói “được” sao, mấy cha? Chớ bộ hai cuộc chiến tranh “dành độc lập” và “giải phóng đất nước” vừa rồi (với biết bao nhiêu là máu xương, tang thương, đổ vỡ) kể như là đồ bỏ hả? Sự thoả hiệp dễ dãi đến độ thê thảm như thế, của cả một giới người, trước cường quyền và bạo lực, rõ ràng, là điều, vô cùng, tủi nhục.
Chính ông Trần Khuê đã “tạm chữa” được cái nhục đó. Nếu đã có một thời mà “những lưỡi gươm Damoclès thường xuyên treo trên đầu người làm văn nghệ” thì cũng đã có lúc ngòi bút sắc như gươm của Trần Khuê đã thường xuyên treo trên đầu của giới cầm quyền ở Việt Nam.
Và sự “nhịn nhục” của nhà đương cuộc Hà Nội trước thái độ cương trực của Trần Khuê, cũng như của Phạm Quế Dương, khiến tôi nhớ lại một câu thơ – đã đọc được đâu đó – của Văn Cao:” Con ơi, gió đã chuyển”. Yes, it does.
Tưởng Năng Tiến
* Nguyen Thi Thanh Xuan, social science researcher, co-authored three books based on discussions at meetings she and a colleague organized to discuss national issues. The books in turn supplied material for political debates. At first, Nguyen Thi Thanh Xuan was praised as an “enlightened intellectual,” but as the debates turned critical of the Vietnamese Communist Party, she was denounced as extremist and reactionary. She was arrested in August 2001. She was soon released but remains closely watched. Her telephone line has been cut and friends are discouraged by local authorities from visiting her (http://www.hrw.org/press/2003/08/vietnam082603.htm)
CUỐI NĂM NGHE CHƠI MỘT BĂNG NHẠC TẾT
Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
Hoa cười cùng tia nắng vàng son
Lũ ong lên đường cánh tung tròn…
Nếu thực sự có một mùa xuân êm đềm và tuơi thắm quá cỡ như vậy mà bạn vẫn chưa hài lòng thì xin nghe thêm vài câu nhạc nữa:
Có một chàng thi sĩ miền quê
Hái bông hoa trao người xuân thì
Có một bầy em bé ngoài đê
Hát câu i tờ đón xuân về…
Tôi dám cá là suốt Thời Trung Cổ, không nơi nào trên trái đất này có được một mùa xuân tươi thắm và êm đềm hơn là mùa xuân mà Phạm Duy vừa mô tả – qua bản nhạc Hoa Xuân, như vừa dẫn. Nhưng Phạm Duy không phải là người thuộc Thời Trung Cổ. Ổng cùng thời với tôi và bạn mà. Vậy chớ ông ta viết về mùa xuân nào (vào thời đại chúng ta) mà thái hòa và an lạc dữ vậy kìa?
Thiệt nó đẹp như mơ vậy đó nha. Và sao tui nghi là ổng đã nằm mơ quá hà. Chớ giữa chúng ta, nhất là những kẻ sinh trưởng ở miền Nam Việt Nam, có mấy ai đã từng nhìn thấy một bờ đê. Cái đê trần trụi vắng hoe cũng khỏi có luôn, nói chi đến “một bầy em bé… hát câu i tờ đón xuân về”, vào một buổi chiều xuân nào đó, đã xa lắc xa lơ, trên bờ đê lộng gió.
Còn chuyện “có một chàng thi sĩ miền quê, ngắt bông hoa trao người xuân thì” (thì…ôi thôi) nhắc làm gì cho nó thêm buồn. Tui nói vậy bạn dám cãi lắm à nha, dám bạn sẽ đưa Nguyễn Bính ra làm bia đỡ đạn, với lý do “ổng là thi sĩ miền quê cuối cùng” của thời đại chúng ta. Tệ hơn nữa, bạn còn dám mang Nguyễn Duy ra để hù tui, bằng những bài thơ lục bát làm “phóng ảnh treo tường” (để bán) của ổng.
Xin lỗi bạn chớ, cỡ Tú Xương đây mà cũng đã có lúc phải ứa lệ – rấm rứt khóc thầm (dám bằng tiếng Pháp) vì nạn đô thị hóa, đây nè:
Sông kia giờ đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…
Xáù gì cỡ Nguyễn Bính, nói chi đến thứ Nguyễn Duy. Nói gọn lại, tui tin rằng chỉ có Nguyễn Khuyến mới là nhà thơ miền quê cuối cùng của dân tộc Việt Nam:
Tháng Giêng hai mươi mốt chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không
Giở giời mưa bụi còn hơi rét…
Chớ còn mấy trự thi sĩ lóc nhóc sau này đều đã bị đô thị hóa, và đã “phong sương mấy độ qua đường phố” hết trơn rồi – theo như cách nói của Sơn Nam.
Và tôi ngại nhất là cái lối bụi đời ướt át của ông Thế Lữ :
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Ngắm nhìn thiên hạ đón xuân sang
Cái gác trọ này – tôi bảo đảm – nằm ở HàThành, vào cuối thập niên ba mươi hay đầu bốn mươi gì đó. Thêm cái kiểu cách “rũ áo phong sương” đủ khiến chúng ta hình dung ra được cả đám Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Xuân Diệu, Huy Cận … đã sống cải lương chết mẹ đi rồi. Đâu còn “thi sĩ miền quê” nào nữa.
Đô thị hóa, tất nhiên, không phải là chuyện chỉ xẩy ra ở Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường. Không tin, cứ đọc tiếp Nguyễn Bính mà xem:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa xuân én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa phượng nở
Riêng ta với người buồn lắm thay
Bạn thấy chưa: lại thêm hai ông nhô con bỏ nhà “dzô” Nam, thuê gác trọ, sống giữa Sài Thành Hoa Lệ. Mà đi giang hồ chút đỉnh như vậy là phải chớ. Chính quê hương của Nguyễn Bính cũng đã nhiễm bụi thị thành từ lâu rồi, còn nấn ná ở đó làm chi cho nó … mụ người ra:
Hoa chanh mọc ở vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hoa đồng cỏ nội bay đi ít nhiều
Coi: nàng mới ra tỉnh có chút xíu hà mà hoa đồng cỏ nội đã bay đi mất liền một mớ. Lỡ mà “ẻm” ghé chơi Hà Nội hay Hải Phòng (chậm lắm) ba đêm là kể như rồi, còn gì là “người xuân thì” theo tiêu chuẩn “chân quê” nữa?
Bạn hết cãi chưa? Dù bạn đã tắt đài, tôi biết bạn vẫn còn ấm ức vì cái giọng điệu hoài cổ cực đoan và quá khích của tui từ khi đặt bút xuống cho tới bây giờ – đúng không ?
Đừng có nghĩ bậy bạ như vậy, mang tội chết (mẹ) à nha. Coi: cuộc tình dấm dớ của một anh thi sĩ miền quê với một người con gái xuân thì, hay hình ảnh một bờ đê lộng gió – và một bầy em bé tung tăng, hát câu i tờ, vào một chiều xuân nắng vàng và lộng gió … – hoàn toàn và tuyệt đối có liên quan, dính dáng gì tới tui đâu. Cớ sao tôi lại phải hoài cổ chớ? Đây là chuyện riêng của…Bà Huyện Thanh Quan hay (cùng lắm) là của ông nội hay ông già tôi thôi à.
Mà hoài cổ, theo tôi, là thứ tình cảm hơi khó hiểu. Làm sao chúng ta có thể yêu mến hay ngưỡng mộ một thời đại mà mình tuyệt đối không có dính dáng gì tới nó? Hoài vọng hay hoài cảm, có lẽ, dễ hiểu và phổ biến hơn. Mọi người, khi bắt đầu luống tuổi, hẳn đều thấy tiếc nuối ít nhiều khoảng ấu thơ hay niên thiếu của mình – dù chúng ta sinh ra và trưởng thành ở bất cứ đâu.
Dù vậy, tôi vẫn lậy Trời cho bạn đừng xui tới cỡ là sinh ra ở miền Bắc – vào khoảng thập niên 1940, 50 hay 60… – và cứ phải sống mãi ở nơi đó cho đến bây giờ. Tuổi thơ và tuổi trẻ của bạn – tất nhiên – cũng đẹp, cũng thơ mộng vậy; tuy nhiên, tôi tin là nó sẽ đẹp hơn, mộng mơ hơn chút đỉnh nếu Bác và Đảng đừng xía vô cuộc đời bạn quá nhiều – như họ đã và vẫn làm đều đều như vậy, từ nửa thế kỷ qua.
Còn nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam thì đỡ mệt biết chừng nào. Sẽ không ai bắt bạn phải đeo khăn quàng đỏ và đi nhặt rác để hoàn thành kế hoạch nhỏ. Bạn cũng được miễn cái vụ “thay trời làm mưa” hay “nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài”, và bạn được tự do đi biểu tình “đả đảo” bất thằng cha hay con mẹ nào mà mình không thích.
Trong một hoàn cảnh sống tương đối dễ thở như thế (và nếu bạn lại sinh trưởng ở một thành phố cao nguyên) thì nhìn thấy mùa “xuân về trên bãi cỏ non” là chuyện … nhỏ thôi. Điều đáng tiếc là những ngày tháng an lành, phẳng lặng đó không kéo dài lâu. Đến khoảng cuối thập niên năm mươi, theo trí nhớ non nớt của tôi, trong không khí an bình của miền Nam thoang thoảng đã có mùi vị chiến tranh – qua những bản nhạc tâm lý chiến (thường được hát ở phòng trà và nghe hơi có nhiều kịch tính), của những ông nhạc sĩ quân đội, như bản “Phiên Gác Đêm Xuân” của Nguyễn Văn Đông:
Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chờ xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay
Nào ngờ đâu hoa lá rơi…
Trời đất, đơn vị bạn đụng địch, “súng xa vang rền” mà đại tá Nguyễn Văn Đông vẫn đang mơ ngủ. Không hề nghe ổng ban lệnh ứng chiến hay có kế hoạch cứu viện gì hết trơn hết trọi; đã vậy, sau khi tỉnh giấc, ổng bắt đầu… mơ mộng:
Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Và ước chiếc bánh ngày xuân…
Thiệt tình, ổng làm đảo ngược binh pháp hết trơn. Người ta thì cư an tư nguy còn ổng thì cư nguy tư an. Những sĩ quan cao cấp trong quân đội miền Nam, như đại tá Nguyễn Văn Đông, chắc có hơi nhiều; bởi vậy – chỉ chừng mười năm sau – năm 1968 thì súng AK của Trung Cộng và Tiệp Khắc nổ thiệt, và nổ khắp bốn mươi bốn tỉnh lị và thành phố của miền Nam (kể luôn thủ đô Sài Gòn).
Cũng từ đây, chiến tranh lan vô thành phố. Nay, “plastic” đặt nổ chỗ này; mai, hoả tiễn 122 ly rơi “lộn” vô chỗ khác. Và dù vậy, xã hội miền Nam vẫn cứ vui như tết – khi Tết đến. Nếu so với miền Bắc – nơi mà vì “hoàn cảnh đất nước khó khăn” nên chỉ có qúi vị ủy viên trung ương đảng CSVN uống ruợu mừng xuân thay cho cả nước – người dân miền Nam hoàn toàn bình đẳng trong chuyện đón xuân. Cứ nghe bản Ly Rượu Mừng của Phạm Đình Chương là đủ biết:
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mùng anh nông phu vui luá thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
Á…a…a…a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á…a…a…a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á…a…a…a
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đây chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đường
Chiến đấu công thành
Sống cuộc đời lành
Mừng người vì nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có người mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhoà
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hoà nỗi yêu thương
Á…a…a…a…
Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính
…
Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương
Nào cạn ly mừng người nghệ sĩ
Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới
Bạn hỡi vang lên lời hứa thiêng liêng
Chúc non sông hoà bình hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén tình đầy vơi
Nhấc cao ly này
Hãy chúc nggày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn ngừơi hạnh phúc chan hoà
Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh bình dâng phơi phới
Coi, nẫy giờ đâu mới chừng mười phút mà mỗi người đã uống đâu cỡ chục ly: ly tặng anh nông phu, ly chào anh công nhân, ly mừng ông thương gia, ly mừng người nghệ sĩ…Chưa đã, còn thêm vài “chén quan san” để “chúc người binh sĩ lên đường” nữa. Vui còn hơn tết và cả nước, chắc chắn, “xỉn” thấy mẹ luôn!
Cũng có những chiến sĩ, say mê chiến đấu (hay đãng trí) đến độ quên luôn cả nhậu:
Đồn anh đóng ven rừng mai
Nếu mai không nở
Anh đâu biết xuân về hay chưa
Nghe thiệt khó tin. Lính miền Nam tháng tháng được lãnh lương đàng hoàng mà, nhìn sổ lương là biết năm cùng tháng tận chớ cần gì tới hoa mai với hoa đào – như ông nhạc sĩ kính kiểng Trần Thiện Thanh, qua bản Đồn Vắng Chiều Xuân.
Lâu lâu mới thấy những người lính nhất định Xuân Này Con Không Về:
Con biết không về mẹ chờ em trông
Nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường
Không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ ơi con xuân này không về…
Những chàng trai hùng cỡ này, tiếc thay, thường không giữ những chức vụ cao trong quân đội. Điều đáng tiếc hơn nữa, trong cuộc chiến tự vệ vừa qua, quân dân miền Nam đã áp dụng một chiến lược sai lầm. Thay vì “vui nhiệm vụ không quên xuân” thì họ đã làm ngược lại là “vui xuân nhưng không quên nhiệm vụ”. Nói cách khác “vui xuân” mới là chuyện chính, còn “nhiệm vụ” chỉ là chuyện phụ (và là chuyện nhỏ thôi)!
Cùng lúc – ở miền Bắc Việt Nam, nghĩa là ở bên kia chiến tuyến – khi Tết đến (sau khi nghe bác Hồ, chủ tịch nước, tổng bí thư, chủ tịch quốc hội, thủ trưởng các ban ngành, đơn vị… chúc tết xong) là mọi người lại đâm bổ đi “tranh thủ làm việc gấp hai” để “thi đua lập chiến công (mừng xuân ) dân đảng”. (Đ…mẹ, chơi vậy ai chơi cho lại!)
Cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt ra sao, vào mùa Xuân năm 1975, mọi người đều biết (và đều tiên đoán được). Từ đó, nhân dân hai miền đều chỉ còn được nghe một bản nhạc xuân duy nhất: Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào. Sài Gòn ơi cả nước vẫy chào…
Cũng như bạn, tôi chịu không nổi cái loại nhạc thổ tả này nên đã vẫy chào “thành phố Hồ Chí Minh quang vinh” để… ra đi – và đi hơi sớm. Từ đó đến nay đã gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi năm qua ơi biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mương, nước rãnh …đã ào ào chẩy qua cầu (và qua cống)?
Chiều nay, chiều cuối năm, ở một góc trời xa, tôi ngồi ghi lại những ý nghĩ lan man vụn vặt để gửi bạn đọc chơi – sau khi nghe hết một băng nhạc trong quán vắngï, bắt đầu từ bản Hoa Xuân của Phạm Duy, đến bản cuối cùng (Xuân Này Con Không Về) của Trịnh Lâm Ngân.
Nhạc xuân gì mà nghe buồn quá, má ơi!
NGUYỄN KHẮC TOÀN VÀ NHỮNG THANH CỦI NỎ
Muốn đốt rừng cũng cần que lửa nhỏ
Thì ta đây củi nỏ giữa than hồng.
Nguyễn Mậu Lâm (Nổi Lửa)
Ngày 20 tháng 12 năm 2002, nhà đương cuộc Hà Nội tuyên xử ông Nguyễn Khăc Toàn mười hai năm tù và ba năm quản chế với tội danh gián điệp. Trước đó một hôm, vào ngày 19 tháng 12 năm 2002, biên tập viên Tâm Việt của đài Á Châu Tự Do có bài tường thuật về nhân vật này – xin trích một đoạn ngắn – như sau:
“Cuối năm ngoái, Quốc-hội họp kỳ họp chót của khoá X bắt đầu từ ngày 20 – 11 – 2001. Trong suốt thời gian Quốc-hội họp ở Ba-đình trong vòng một tháng trời đã có một hiện tượng khá lạ, đó là gần như không có ngày nào mà nông dân ở khắp nước, đa phần là phụ nữ, nhất là những người đi ở trong Nam hay ở miền Trung ra Hà-nội, là không có biểu tình ngay ở trước Quốc-hội, ở gần tư gia Tổng-bí-thư Nông Đức Mạnh, Bộ Ngoại-giao và nhất là văn phòng khiếu kiện trên đường Mai Xuân Thưởng gần chùa Một Cột.”
“Lúc đầu, những cuộc biểu tình này còn ôn hoà và chưa đến nỗi đông lắm, chỉ chừng vài chục người ở mỗi nơi. Nhưng với thời gian, khi họ nhận thức được là Quốc-hội cũng như các cơ quan chính quyền thực sự sẽ không làm gì để giúp họ thì họ bắt đầu tề tựu đông hơn, có lúc lên đến cả vài trăm người, gây sự chú ý và ngạc nhiên của hiều nhà báo quốc-tế có mặt ở Hà-nội lúc bấy giờ.”
“Nhận thấy việc làm của họ mang nhiều ý nghĩa hy sinh mà không có kết quả, ông Nguyễn Khắc Toàn, một cựu chiến binh đã từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh xâm chiếm Sài-gòn, lúc bấy giờ 46 tuổi, bèn nẩy ra ý đứng ra giúp đỡ họ bằng cách chỉ dẫn cho họ cách làm đơn, đi gõ cửa đúng những chỗ cần gõ cũng như làm theo đúng những thủ tục tố tụng. Chính vì lý do đó mà ông bị công an bắt đầu theo dõi.”
“Để cho việc làm của những người nông dân này, trong đó có nhiều người là “mẹ liệt sĩ” hay thuộc gia đình có công với cách mạng, có tiếng vang, ông Nguyễn Khắc Toàn đã quay ra, bắt đầu từ hôm 16 tháng 12 năm 2001, làm ra những bản tin về những cuộc biểu tình này và tìm cách phổ biến đi khắp nơi, kể cả hải ngoại…”
Thế là ông Toàn bị bắt. Còn những người tham dự biểu tình (phần lớn là phu nhân liệt sĩ hay mẹ Việt Nam anh hùng) thì chỉ bị tạm giữ tại hai trại Đông Dâu và Lộc Hà, ở ngoại ô Hà Nội, nơi chuyên để bắt giam những kẻ vô gia cư và những cô gái mãi dâm. Lý do: đã đi biểu tình mà còn cầm thêm biểu ngữ là “lạm dụng dân chủ”, theo như phán quyết của ông Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh.
Như thế, mọi chuyện kể như xong. Hà Nội trở lại im lặng. Nó đã quen nhẫn nhục, e dè, khép nép và sợ hãi trong nín lặng như thế từ lâu lăm rồi mà. Khóa họp quốc hội năm 2003 lại diễn ra trong an bình, lặng lẽ và tẻ nhạt – nếu chưa muốn nói là chán ngán, như nó vốn đã chán ngán như thế ngay từ lúc mới ra đời. Những ngày “sôi động ở Hà Nội” (theo như cách nói của Nguyễn Khắc Toàn) coi như là chấm hết.
Tưởng vậy mà không phải vậy. Cuối năm 2003, thay vì những bản tin nẩy lửa gửi đi từ Hà Nội của Nguyễn Khắc Toàn thì người Việt – ở khắp mọi nơi – nhận được một cuộn băng cassette có tên là CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI TÌM CÔNG LÝ của một phụ nữ tên Phạm Thị Lộc. Nó được ghi lại và chuyển đi qua hệ thống internet, cùng với hình ảnh, bao gồm 68 trang giấy (khổ 8 ½ x11) nếu download theo kiểu chữ VNI-Times 14. Nội dung có thể được tóm gọn như sau:
Bà Phạm Thị Lộc kết hôn với ông Nguyễn Văn Hùng vào năm 1995, tại tỉnh Băc Giang. Đến năm 1999, họ có với nhau một đứa con tên Nguyễn Thị Ngọc Anh. Vì cháu Ngọc Anh không phải là con trai, và cũng vì bố mẹ ông Hùng không tán thành cuộc hôn nhân thiếu … “môn đăng hộ đối”, ngày 10 tháng 5 năm 2000, anh Hùng làm đơn gửi toà án nhân dân thị xã Bắc Giang xin hủy hôn thú giữa hai người. Đến ngày 14 tháng 4 năm 2001, anh Hùng lại kết hôn với một người đàn bà khác. Vì “sơ xuất” của cả hai phiên toà của tỉnh Bắc Giang nên chuyện hủy hôn và tái hôn của ông Nguyễn Văn Hùng đều … trót lọt. Thế là bà Phạm Thị Lộc mất chồng và cháu Ngọc Anh mất cha.
Sau ba năm bồng con thơ lang thang đầu đường xó chợ, đi gõ cửa mọi cơ quan công quyền để đòi hỏi công lý một cách vô vọng, bà Phạm Thị Lộc đã rút ra kết luận như sau về hệ thống pháp luật ở VN – bây giờ:
“Kêu trời thì trời cao
Kêu đất thì đất dầy
Kêu Đảng thì Đảng lặng im, một sự lặng im đáng sợ!
Kêu Nhà nước và Pháp luật thì biệt vô âm tín…?
Giờ đây người dân oan vô tội mới thấm thía câu ngạn ngữ của cha ông: “Lưỡi không xương trăm đường lắt léo” muốn kết tội ai cứ giải thích pháp luật theo kiểu mình muốn. Coi tính mạng con người như cỏ rác, coi thiên hạ không bằng cái trống thủng, cứ kêu đi, cứ phản đối đi, binh quyền trong tay ta, nhà tù trong tay ta, toà án trong tay ta, pháp luật trong tay ta, đất trời trong tay ta. Đố ai dám làm gì…? Làm gì nổi ta…?
Bởi thế vụ án của tôi là một sự thực minh chứng cho những điều tôi vừa biện dẫn trên. Mà từ xưa tới nay chưa một người dân thưa kiện nào dám nói lên tất cả sự thật: mục ruỗng thối nát của cả một hệ thống tư pháp, dưới trên đều sai phạm nghiêm trọng. Chẳng khác nào như một bệnh dịch hiểm nghèo đang lây lan khắp mọi miền đất nước. Vô phương cứu chữa”.
Trong thư gửi riêng cho ông Nông Đức Mạnh, sau khi bầy tỏ tâm trạng chán chường và thất vọng của mình, bà Phạm Thị Lộc viết tiếp:
“Thôi thì việc ông ông làm, đường dân dân cứ đi rồi xem thế vận xoay vần đến đâu. Khi quý Ông nhận được cuốn băng này trong vòng 30 ngày không nhận được sự chỉ đạo trả lời dứt điểm để trả lại công lý – nhân quyền cho 2 mẹ con tôi, thì toàn bộ sự thật của nước Việt Nam từ ngày có Đảng lãnh đạo sẽ được đưa lên mạng Internet và các cơ quan truyền thông quốc tế, để lịch sử loài người sẽ hiểu sâu về Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh như thế nào? Sinh mạng của 2 mẹ con tôi các quý Ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm vì tôi là một công dân Việt Nam giám dũng cảm bóc trần mọi sự thật thối nát từ địa phương lên đến Trung ương, dù bọn giặc nội xâm có thừa lệnh của ai đi nữa để giết chết mẹ con tôi bằng mọi thủ đoạn đê tiện nhất thì tôi cũng tính đến hậu quả này, chết mà mang lại chính nghĩa cho ngàn vạn dân oan Việt Nam mẹ con tôi sẵn sàng.
Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2003
Người dân oan bất hạnh
Phạm Thị Lộc
Địa chỉ hồi âm: Dẫy lều giữ xe đạp số 10 phố Thụy Khuê, sát cạnh trường Chu Văn An – Tây Hồ – Hà Nội.
Cũng ở “địa chỉ hồi âm” này, bà Lộc quen biết với một người vô gia cư khác – bà Nguyễn Thị Kỷ. Bà Kỷ (nguyên là người ở xóm 3, xã Bách Thuận, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) tâm sự như sau:
“Tôi là dân oan bị chính quyền xã, huyện, tỉnh đồng loã, bao che cướp trắng đất thổ cư của tôi cho đấu thầu đã 24 năm đi kiện hiện nay chưa được giải quyết, rất mong Đảng, Chính phủ, Quốc hội yêu cầu phải chỉ đạo cấp địa phương phải trả lại đất thổ cư cho tôi, được đảm bảo quyền sống tối thiểu của một công dân nước Việt Nam. Đừng để tôi phải là ngọn đuốc sống để đón chào Sea Games 22 vào cuối năm 2003 này.”
Nằm cạnh bà Kỷ (tại dẫy lều giữ xe đạp số 10, trên vỉa hè phố Thụy Khuê) là bà Lê Thị Hương, hồi xưa ở số 86 lô 106 Trần Văn Lang D1 Cát Bi, Hải An, Hải Phòng. Ba mươi năm qua, bà Hương kiên trì đi thưa kiện để đòi nhà cửa tải sản bị cướp đoạt từ năm 1975. Sự nhẫn nại hiếm có và đáng qúi này (không hiểu tại sao) chấm dứt – cái rụp – vào cuối năm 2003. Bà Hương, bỗng dưng, dõng dạc và lớn tiếng tuyên bố:
“Yêu cầu Đảng, Chính phủ, Quốc hội giải quyết dứt điểm đến Quốc hội tháng 10/2003 này. Nếu không nhận được sự chỉ đạo của các ông thì tôi xin chết tại cổng nhà các ông. Còn hơn để một phụ nữ như tôi trong diện chính sách ưu tiên đặc biệt phải chết dần chết mòn, chết nhục nhã trong bàn tay của bọn bạo chúa – ác ôn – cướp ngày”.
Đây cũng là thái độ chung của mười bốn người người “dân oan” khác nữa, họ cùng lên tiếng – như sau:
“Tất cả những người có tên trong cuốn băng này nếu trong vòng một tháng không nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của các ông thì dân oan của 61 tỉnh thành nhất tề đứng dậy, xiết chặt hàng ngũ xuống đường đấu tranh quyết tử với bọn bạo chúa, ác ôn, cướp ngày mà chúng đã luồn lách chui rúc trong các bộ máy chính quyền từ địa phương tới Trung ương, chuyên ăn xương, hút máu của ngàn vạn dân oan mà đã máy chục năm nay thành một hệ thống bệnh hoạn. Nay toàn dân oan chúng tôi sẽ lấy sức mạnh của 80 triệu dân cùng với lương tri của nhân loại biến căm thù thành hành động vùng lên quyết tử … “
Trời đất, nghe thấy mà ghê! Cứ y như trong câu tục ngữ “giặc đến nhà đàn bà phải đánh” vậy. Rõ ràng, những “bà già giết giặc” này muốn liều mạng và ăn thua đủ với Đảng CSVN (quang vinh) mà họ đã “ngộ nhận” là đảng cướp. Vậy mà tôi cứ tưởng là dân Hà Nội đã quen nhẫn nhục, e dè, khép nép và nín lặng (từ lâu) rồi chớ.
Nghe cuốn băng đến đây thì người ta (liền) “thông cảm” và (bèn) hiểu tại sao ngày 20 tháng 12 năm 2002 nhà đương cuộc Hà Nội đã vội vàng cất ngay Nguyễn Khắc Toàn – và cất kỹ – trong tù với tội danh là “gián điệp, vì đã gửi thông tin ra nước ngoài. Sự thực, đó chỉ là cái cớ. Một cách kiếm cớ rất vụng về.
Những bản tin mà Nguyễn Khăc Toàn gửi ra hải ngoại, từ ngày 20 tháng 12 năm 01 đến ngày 1 tháng 01 năm 02, đều đã được thông tín viên của những hãng thông tấn ngoại quốc gửi đi sớm hơn – từ Hà Nội – với nội dung tương tự. Điểm khác biệt duy nhất trong những bản tin của Nguyễn Khắc Toàn là ông đã không dùng ngôn ngữ thông tin thuần túy. Thay vào đó là những lời lẽ chân thành, sôi nổi và (đôi khi) mang nội dung kích động. Trong bản tin “Nông Dân Thanh Hóa Tố Cáo Chính Quyền Đàn Áp Dân Chúng”, viết ngày 20 tháng 12 năm 2001, ông kết luận như sau:
Trong khi CSVN vơ vét từng mét đất của người dân khốn cùng, đói rách chỉ vì cái ghế thống trị đầy béo bổ cho quyền lợi ích kỷ của chúng, chúng lại còn hèn hạ đặt bút ký những hiệp định về lãnh hải và biên giới trên bộ dâng hàng trăm ngàn km2 cho bọn bành trướng Trung Quốc. Thật là một lũ hại dân bán nước cầu vinh. Nhất định sớm hay muộn CSVN sẽ bị lịch sử kết án tội ác tầy trời này.
Và đây là câu kết cho bản tin gửi đi ngày ngày 17 tháng 12 cùng năm:
“Thật là một ngày sôi động tại Hà Nội, đi dâu cũng đập vào mắt người dân những cảnh bất công ngang trái, phi nhân … Đây là báo hiệu điềm gở, một tai hoạ sẽ đến … Đó là sự sụp đổ của chế độ sẽ không còn bao xa nữa”
Thái độ “sôi nổi” và ngôn ngữ “kích động” của Nguyễn Khăc Toàn bật ra tự nhiên như những tia lửa nẹt từ trong lòng một đống than hồng. Nghĩa cử hào hiệp và sự dũng cảm của ông (khi thản nhiên đến với những người dân cùng khốn đang bị oan khuất) bất chấp bạo lực đã như những ánh diêm lóe sáng giữa đêm đen.
Không thểå để cho mồi lửa Nguyễn Khắc Toàn tiếp cận với những thanh củi nỏ như Phạm Thị Lộc, Nguyễn Thị Kỷ, Lê Thị Hương… ở vỉa hè Hà Nội. Vì như thế thì “Thủ Đô của ta” cháy (dễ) như không!
Nhốt Nguyễn Khắc Toàn vào một chỗ kín đáo để đề phòng hỏa hoạn quả là một việc cần làm nhưng … (e) không đủ. Dân Việt (vốn) có hơi nhiều … Nguyễn Khắc Toàn.
Ngày 18 tháng 6 năm 03, ngay sau khi nghe toà tuyên án Phạm Hồng Sơn 13 năm tù cũng vì tội danh gián điệp, ông Nguyễn Xuân Phúc, bào dệ của ông Nguyễn Khăc Toàn, đã nói với biên tập viên Đinh Quang Anh Thái của đài Little Saigon Radio – trong một cuộc phỏng vấn – như sau:” Tôi không sợ …..Tôi nghĩ tiến trình dân chủ là mộ tiến trình tất yếu… Việt Nam trước sau gì cũng dân chủ,một nền dân chủ thật sự. Đây là tiến trình tất yếu của nhân loại.”
Chỉ trong một gia đình thôi mà có đã có đến hai Nguyễn Khắc Toàn! Và những thanh củi nỏ bây giờ thì (ôi thôi) nhiều vô số, và ở khắp mọi nơi – chứ chả riêng chi Trà Cổ, Thái Bình, Tây Nguyên hay Hà Nội.
nhà có hoa anh đào
Khi mở cửa bước ra sân sau, cả hai bố con tôi đều đứng sững, mở lớn mắt nhìn.
– Có cây hoa đào con ơi! Bố tôi kêu khẽ ngạc nhiên.
– Dạ, hoa đào.
Tôi đáp nhỏ rồi đứng lặng ngắm bầy ong bé tí đang lượn quanh những bông hoa vừa hé nở. Dạo ấy vào khoảng tháng Ba, đúng lúc mận đào ở Mỹ đang độ khai hoa. Những cánh hoa hồng thắm, mong manh, rung nhẹ trong nắng sớm gây trong tôi một niềm xúc cảm thật êm đềm nhẹ nhàng nhưng sâu đậm. Lâu lắm tôi mới lại nhìn thấy hoa đào.
Trí tưởng của tôi bỗng quay nhanh về một thành phố cũ, nơi mà tôi đã lớn lên và đã ướp đẫm tuổi thơ của mình bằng hàng trăm loại hương hoa: hoa hồng, hoa ngũ sắc, hoa rẽ quạt, hoa bìm bìm, hoa dạ lý, hoa mận…; và tất nhiên là phải có hoa đào. Nói một cách hơi quá ướt át, người ta vẫn gọi đó là “xứ hoa đào” mà.
Tôi thấy rõ ràng là mình đang lơn tơn hớn hở trên đường đến trường vào một buổi sáng tinh mơ. Con đường Thủ Khoa Huân nhỏ hẹp, thoai thoải dốc, cần cận những viên đá bạc đầu dưới mỗi bước chân đi. Hai bên đường, chen lẫn giữa những bụi hoa quỳ man dại, là những cành mai mềm mại ẻo lả vươn cao – lấm tấm điểm những cánh hoa còn ướt đẫm sương đêm.
Cùng lúc, bố tôi – không chừng – cũng đang đi lại trên một con đường nào đó của riêng ông. Có thể đó là một con đường rừng rực rỡ mai vàng, giữa vùng biên giới Hoa – Việt, khi mà ông chưa gặp mẹ tôi, và vào lúc mà chuyện đánh đuổi thực dân còn là điều làm say lòng cả một thế hệ người.
Mẹ tôi, không hiểu đã lặng lẽ đến đứng sau lưng chúng tôi tự lúc nào, bà cũng kêu lên thích thú:
– Có cả cây hoa đào và cây chanh nữa hả con!
– Vâng…
Tôi nói “vâng” lí nhí mà lòng thì sung sướng hãnh diện như thể chính mình là kẻ đã gieo trồng vun sới hai cây đào và cây chanh đó vậy. Sự thực, trước đó một tuần, khi đi xem nhà vào ban đêm tôi không hề biết rằng vườn sau có cây trái gì cả. Tìm được một căn nhà ở khu yên tĩnh, giá thuê vừa phải, và người ta không để ý đến sự dị biệt màu da hay màu tóc đã đủ làm tôi mừng quýnh đi rồi.
Bữa cơm đầu tiên nơi căn nhà mới chúng tôi ăn với thịt gà luộc chấm muối tiêu và lá chanh thái chỉ. Mẹ tôi xuýt xoa khen ngon và quên bẵng đi cái tội “mềm nhũn” của những con gà Mỹ. Như thường lệ, bố tôi vẫn giữ im lặng nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt của ông là tôi đã nhận thấy có sự hài lòng. Cả ngày hôm ấy, và nhiều ngày tháng kế tiếp nữa, chúng tôi đều rất bận và vui – sự vui thích mà đã có lúc tôi ngỡ rằng sẽ không bao giờ còn tìm lại được trên nét mặt của bố mẹ già nữa.
Trước đó một năm, cũng đã có lúc gia đình tôi sống rất an vui. Đó là thời gian tôi vừa đón bố mẹ từ quê nhà sang, theo chương trình đoàn tụ gia đình. Nhưng rồi sau đó không lâu là những ngày tháng buồn bã tẻ nhạt khiến tôi vô cùng bối rối và khổ sở.
Vì không lường trước, và cũng vì sự giới hạn của tiền bạc, tôi đã “nhốt” bố mẹ gìa gần cả năm dài, sau bốn bức tường, trong một chung cư ở thành phố San Jose, California. Khi niềm vui đoàn tụ đã qua đi, và khi mà cả hai người đều bắt đầu có triệu chứng chết héo giữa đất lạ xứ người thì tôi đâm hoảng.
Việc đầu tiên là tôi vội vàng đưa bố mẹ đi chùa. Trời Phật ơi, chùa ở Mỹ sao mà nhỏ xíu và vắng ngắt vậy nè. Vào ngày lễ lớn chùa có đông người thì bên ngoài không còn chỗ đậu xe, và bên trong thì không đủ chỗ ngồi.
– Sao chùa chiền ở đây giống y như nhà ở thế hả con ?
Sự thực thì đó đúng là cái nhà chứ còn “giống như” gì nữa. Tôi không hiểu, và cũng không dám hỏi xem, căn nhà đó thuê hay mua trả góp. Và dù mua hay thuê, bằng cách nào mà vị sư trụ trì trả nổi một số tiền cho căn nhà bốn phòng – đối với riêng tôi – đúng là một điều “mầu nhiệm”.
Sau đó, tôi đưa bố mẹ đi phố Tàu, với lời giải thích ba hoa rằng “vào đây bố mẹ sẽ thấy thoải mái y như thể là mình đang đi trong Chợ Lớn ở Sài Gòn vậy”. Kể cả vào mùa Hè, thời tiết của thành phố San Francisco dường như vẫn cứ hơi quá lạnh đối với sức khỏe mong manh của bố mẹ tôi. Nhìn hai ông bà già co ro, ngơ ngác giữa những hè phố luôn luôn chen chúc người đi mà không dưng ruột tôi muốn… đứt. Rõ ràng là bố mẹ tôi không thấy “thoải mái” một tí nào cả. Không bao lâu cả hai người đều than là nhức đầu và chóng mặt. Chính tôi, tôi cũng cảm thấy … y như vậy!
Vì thiếu đất nên Chinatown chỉ có thể phát triển theo chiều cao. Cùng với cái lối kiến trúc theo chiều dọc này là cái tính hay bày biện lộn xộn và hay chưng hoa kết đèn của người Trung Hoa khiến cho đôi mắt của du khách lạc vào khu phố của họ phải điều tiết quá nhiều; do đó, ai mà không chóng mặt. Và nếu bố mẹ tôi biết được rằng trong một phạm vi chỉ có hai mươi bốn lốc đường mà chứa lúc nhúc đến bốn chục ngàn người (một mật độ cao nhất thế giới) – lúc nào cũng nói năng xí xa xí xồ – thì hẳn là ông bà còn nhức đầu hơn nhiều lắm.
Chúng tôi vội vã chạy ra khỏi khu rừng người vô duyên đó. Loanh quanh một lát, tôi đưa bố mẹ đi khoe cầu treo Golden Gate, mà vẫn theo lời tôi là “to và dài nhất hoàn cầu.” Bố tôi nhìn cái cầu với đôi mắt lãnh đạm như thể là người ta nhìn thấy cây viết hay cục tẩy trên bàn vậy. Mẹ tôi thì quan sát trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm:
– Theo mẹ thì mình cứ xây độ một trăm cái cột chống cho nó an toàn, con ạ. Chả tội gì phải để nó chông chênh như thế.
– Vâng, mẹ dạy như thế là phải!
Tôi đáp cho qua chuyện rồi lặng lẽ đưa hai người ra về. Trên đường về tôi câm như hến vì buồn quá. Bố mẹ tôi thì mệt quá nên cũng chả ai nói năng gì. Trong xe tôi đã mua sẵn mấy băng nhạc cải lương. Điều đáng tiếc là tuy hai ông bà cũng thích nghe cổ nhạc miền Nam nhưng không thích lắm. Hai người có vẻ ưa nghe cô Hồ Điệp ngâm thơ hơn. Tôi lại chỉ tìm được mỗi một cuốn băng của Hồ Điệp thôi nên đã có lúc “đành” phải vào phòng, đóng kín cửa lại, vừa dạo đàn, vừa ngâm một số những bài thơ – mà phần lớn do chính tôi sáng tác – để “cống hiến” cho bố mẹ già, vào lúc mà không khí gia đình buồn tẻ hay nhạt nhẽo.
Khi còn trẻ, mỗi lần uống rượu say, ở bất cứ nơi đâu tôi cũng đều bắt mọi người “phải” im lặng nghe tôi ngâm thơ. Dù chưa bao giờ bị ai đánh vì chuyện này, không hiểu sao, từ khi qua tuổi ba mươi tôi “bỗng” trở nên biết điều hơn. Tôi vẫn say rượu, thỉnh thoảng, nhưng cái vụ ngâm thơ hay ca hát thì bỏ hẳn.
Tuy thế, tôi vẫn không từ bỏ niềm tin vào “làn hơi thiên phú” của mình. Nếu nó không giúp tôi hái ra tiền thì ít nhất nó cũng đủ làm cho bố mẹ tôi vui. Tôi đã tưởng thế vì cũng như bao nhiêu bà mẹ “điên khùng” khác trên cuộc đời này, mẹ tôi rất thích bất cứ cái gì do con mình làm ra. Bà cụ cứ nghe đi nghe lại mãi cuộn băng do chính tôi ngâm thơ.
Điều không may là bố tôi thì khác. Ông tỉnh táo và khách quan hơn. Đợi vào lúc mẹ tôi không có mặt, ông nhỏ nhẹ nói:
– Con ngâm thơ bố thấy cũng hay, nhưng giá con đừng làm như vậy nữa thì không chừng lại hay hơn nhiều.
Vậy là những cuộn băng “đặc biệt” ấy phải chìm vào quên lãng.
Sau vụ đó, tôi chuyển sang băng nhựa video. Không phải là tôi làm hề rồi tự thu băng để chiếu lại cho bố mẹ già giải trí như Lão Lai bên Tàu đã làm hồi xưa đâu. Thiệt tình là tôi dở hơi không tới cỡ đó. Chỉ vì thấy chuyện chưởng Kim Dung được quay thành phim video và chuyển âm sang tiếng Việt nên tôi vội vàng đi mua máy, mướn phim về để cả đống ở nhà.
Những tác giả ngoại quốc tôi ít khi để ý, trừ Kim Dung. Nếu không tình cờ gặp ông vào năm mười tuổi có lẽ tôi cũng đã thi đậu vào đệ thất của một trường công lập ngay keo đầu rồi.
Tôi hy vọng không khí trong gia đình sẽ đỡ tẻ nhạt hơn nếu bố mẹ tôi chịu ngồi xem phim chưởng suốt ngày. Tối đến, tôi sẽ ba hoa liếng thoắng bàn thêm cảnh Tạ Tốn cướp đao trên Bàn Sơn Đảo. Nếu bố mẹ tôi chưa hiểu rõ về công phu Sư Tử Hống hay về sự khác biệt giữa phe Kiếm Tông và Khí Tông trong phái Hoa Sơn thì đúng là những cơ hội bằng vàng để tôi có dịp khoe khoang về kiến thức trời biển của mình.
Tiếc thay, bố mẹ tôi chả hề để mắt đến những cuộn phim thổ tả đó. Theo lời ông cụ thì “chúng nó nói một thứ tiếng Việt không phải của người Việt”. Còn mẹ tôi thì chỉ sau một show ác đấu ngắn ngủi của Kiều Phong ở Tụ Hiền Trang là bà cụ đã vội vã chạy ngay vào phòng đọc … kinh cầu siêu.
Dù vẫn bị mang tiếng là hơi chậm hiểu, cuối cùng, tôi cũng nhận ra được sự thiếu thốn mất mát lớn lao trong đời sống của bố mẹ tôi nơi xứ lạ quê người. Họ cần một miếng đất. Họ phải sống trên đất, gần đất và với đất. Trải thảm, tráng xi măng, lót nhựa đường để che hết đất là giết chết con người, Giời ạ.
Tôi nhớ đến hôm đi San Francisco về, mẹ tôi đã nhìn những đồi cỏ xanh bát ngát và chép miệng:
– Đất bỏ hoang nhiều quá, hoài của thật con nhỉ ?
Tôi vội vàng cải chính:
– Đâu có, mẹ. Nông trại cả đấy chứ. Mẹ không thấy người ta nuôi bò và ngựa trên đó sao ?
– Ừ nhỉ! Thế mà mẹ cứ tưởng… Sao người ta lắm đất thế …
Thế là tôi xin việc làm thêm, cố gắng dành dụm một số tiền đủ để đặt cọc thuê được một căn nhà duplex. Nhà mới tuy bé nhỏ nhưng vẫn có đủ sân trước, vuờn sau, nằm ở khu an ninh và toàn người láng giềng da trắng đàng hoàng sạch sẽ. Đã thế, chúng tôi còn có sẵn cả cây chanh và cây hoa anh đào nữa.
Thời gian sau đó, gia đình tôi sống rất yên vui và ổn thỏa. Vào mùa Hè, khi tôi từ sở làm về trời vẫn còn nắng chói chang. Mở cửa vào nhà xong là tôi bước ngay ra sau vườn. Bao giờ bố tôi cũng đang ngồi uống trà dưới gốc cây đào; và mẹ tôi thì lui hui bận rộn với những luống rau bé bỏng của bà. Gần như từ sáng sớm cho mãi đến khi chiều tối, lúc nào bố mẹ tôi cũng sống ở ngoài vườn.
Chúng tôi phân định mảnh đất tí teo vừa thuê được ra làm nhiều phần rất là rõ rệt. Bố tôi chăm sóc cây đào, cây chanh và giàn hoa giấy màu xác pháo ở cổng vào. Rẻo đất phía trước cũng là nơi để ông giồng hoa cúc.
Phần tôi, tôi chỉ xin một góc cỏn con, vô cùng khiêm tốn để gieo một ít poppy và trồng mấy cụm pensee thôi. Chả hiểu bố tôi có kỷ niệm gì với loài hoa cúc đại đóa hay không; riêng tôi, hai loài hoa vừa kể là hai hoài niệm về hai mối tình te tua của đời mình. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu sao, đường tình duyên của mình lại ít may mắn thế.
Nguyên cả mảnh vườn sau là giang sơn riêng của mẹ tôi, một giang sơn nhỏ hẹp nhưng vô cùng phong phú. Tôi cuốc một luống đất dài để mẹ giồng đủ loại rau thơm: rau húng quế, húng nhũi, tía tô, rau răm, kinh giới, mồ ôm…; và tất nhiên phải có hành ngò và cả sả nữa.
Người ta không mấy khi có dịp làm được một thức ăn với sả ở Hoa Kỳ. Nhưng có hề chi. Đâu ai cố gây và giữ cho được môt bụi sả chỉ vì nó cần cho nồi cà ry hay cho món thịt bò kho. Điều cần là thỉnh thoảng, khi buồn buồn mình có thể ngắt một lá sả vò nhẹ trong tay, rồi đưa lên mũi để hít thở được hương vị của cả quê hương thoang thoảng nhẹ nhàng trong đó.
Mẹ tôi còn thích có một hàng cải bẹ xanh, xanh thật là xanh, để vào những lúc nắng nhạt bà có dịp nhìn thấy vài đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống hoa vàng. Luống đất còn lại chúng tôi gieo hột rau dền, rau tần ô, và rau muống – những thứ rau mà tôi biết rằng nếu thiếu đi thì cuộc đời mẹ tôi kể như là vô nghĩa. Phần đất sát với bờ rào của nhà bên cạnh thì tôi làm giàn cây để cho khổ qua, bầu, và mướp có chỗ leo.
Tôi không ưa hoa bầu và hoa mướp đâu. Coi vô duyên thấy mẹ. Nhưng với giàn khổ qua thâm thấp, lá xanh sắc, nhỏ nhắn, xinh xắn, điểm những hoa vàng nhỏ li ti thì trông thương lắm.
Tôi “dọa” mẹ rằng:
– Bầu ở Mỹ tốt lắm mẹ nhá. Quả nào cũng dài lê thê đến chấm đất luôn.
– Hay quá, hả con.
– Dạ.
Tôi “dạ” ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Thế là bữa cơm tối nào gia đình tôi cũng có chuyện để nói. Và toàn những chuyện vui. Mẹ tôi có lúc xuýt xoa:
– Bắp của Mỹ lạ lắm con nhá. Mẹ mới gieo có hai hôm mà đã lên cao cả gang tay.
– Dạ.
Tôi lại “dạ” dịu dàng rồi vội vã thêm:
– Ở đây nó thế mẹ ạ.
– Hay nhỉ.
Tôi thấy hãnh diện cho giàn bầu và mấy cây bắp con con quá. Sau hơn một năm ở Mỹ, mọi thứ đều bị mẹ tôi coi thường, kể cả “cái cầu treo dài nhất thế giới”; chỉ riêng có hai giống thực vật vừa kể là nhận được hai câu khen tặng “hay quá” và “hay nhỉ” ngắn ngủi hiếm hoi thôi.
Có hôm đang bữa cơm bỗng mẹ tôi buông đũa, thản thốt kêu:
– Thôi chết rồi, con ơi!
– Sao hả mẹ ?
– Mẹ quên nói với con là mấy cây rau mồ ôm và rau răm vừa mới nhú lên thì đã bị ốc sên cắn mất mấy cái lá rồi.
Trời, chuyện nhân quyền bị vi phạm ở Tầu, ở Cuba, ở Việt Nam hay ở đâu đó thì tôi đành bỏ qua, chứ còn cái thứ ốc sên mà cũng bầy đặt hoành hành ngay sau sân sau nhà tôi thì đâu có được. Tôi bỏ dở bữa cơm, hùng hổ lái xe ngay đến Kmart vác mấy hộp thuốc trừ sên về rải khắp vườn. Thỉnh thoảng, còn có dịp chứng tỏ cho mẹ thấy là mình chưa hoàn toàn vô dụng khiến tôi thấy nhẹ người hết sức.
Bố tôi vẫn thường giữ im lặng như bản tính xưa nay của ông; tuy thế, khi nhìn thấy rau thơm giồng ở ngoài vườn đã được ông cụ chiếu cố làm cho tôi thực sự thấy rất yên lòng.
Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên đưa bố mẹ đi ăn phở ở hiệu Đắc Phúc. Ông cứ cầm cọng rau húng quế mãi trên tay, ngắm nghía thật lâu, vò nát một góc lá, đưa lên mũi ngửi rồi vứt xuống bàn. Tôi đã thấy nhiều người tỏ sự thất vọng và khó chịu vì mùi vị nhạt nhẽo của những cây rau thơm giồng ở Mỹ, nhưng chưa thấy ai biểu lộ một thái độ chán chường đến thế.
Chao ơi, ngay cái giây phút đó sao tôi khổ quá. Tôi chỉ muốn chết cho rồi. Tôi thương bố tôi đến chảy nước mắt và thấy ái ngại cho những cây rau thơm mọc ở xứ người. Lá của chúng cứ mỗi ngày một lớn và hương thơm thì cứ theo thời gian mà nhạt dần đi.
Rau thơm mẹ tôi giồng ở sau vườn cũng chả thơm gì mấy, nhưng khi nhìn thấy bố tôi nhẫn nại ngắt từng lá bỏ vào chén khiến tôi thấy được an ủi vô cùng.
Tôi đã nghĩ là phải tìm cách mua cho được căn nhà đó, phải mua bằng được một nơi trú thân an ổn cho bố mẹ già. Chỉ cần cố gắng thêm một thời gian nữa, thời gian đủ cho chúng tôi để dành được một số tiền thế chân chừng mười phần trăm là có thể nói chuyện mua bán được rồi.
Tôi cũng đã mường tượng trước là sẽ giồng thêm cho mẹ một cây bơ, và một hàng anh đào che kín vườn sau cho bố. Rồi ra, căn nhà của chúng tôi sẽ rực rỡ hoa đào – vào mỗi độ xuân về.
Cái mùa xuân rực rỡ đó, tiếc thay, đã không bao giờ đến. Biến cố đến trước mùa hoa đào nở. Có hôm, người quản lý khu phố điện thoại vào tận chỗ tôi làm việc, với giọng gắt gỏng:
– Ê, daddy của mày sao kỳ quá hà ?
– Kỳ làm sao ?
– Ổng cứ mặc đồ ngủ đi vòng vòng hoài hà. Hàng xóm họ nghi ông điên. Mà ổng có “bị sao” không vậy ?
Tôi ngọng. Sự thực là bố tôi rất hay mặc một bộ quần áo pyjama trắng, đội cái nón nỉ, khoác thêm chiếc áo bành, và cầm một cây gậy đi dạo mỗi sáng “cho nó khỏe người”. Hình ảnh này đối với tôi bình thường và quen mắt quá. Tôi quen với nó ngay từ ngày bố tôi chưa phải cầm gậy, và thay vào đó là ông cầm bàn tay bé bỏng của tôi kìa. Tôi thấy như vậy “có sao” đâu ?
Sau đó đến chuyện của mẹ tôi. Bà cụ có hàm răng đen. Và cũng cứ theo lời thằng cha quản lý khu phố thì lúc bà cười “khiến nhiều người sợ hãi.” Hắn làm tôi nghĩ ngay đến một bà cụ quê mùa, nhỏ bé loắt choắt, lúc nào cũng đội xùm xụp chiếc khăn mỏ quạ, thỉnh thoảng đi lại ngoài đuờng… Hình ảnh này đối với một số người Hoa Kỳ quả là “khó coi”, đó là chưa kể đến hàm răng đen.
Tôi không hề nghĩ đến điều đó vì đối với riêng tôi – trong những năm dài xa cách – mỗi khi nhớ đến mẹ là tôi chỉ thấy hình ảnh của bà khi tôi còn bé tí, đi đâu cũng nắm chặt chéo áo của mẹ thôi; thuở ấy, răng của mẹ tôi đen huyền, môi hồng cắn chỉ. Dù có thêm bao nhiêu ngàn năm nữa qua đi thì mẹ tôi vẫn cứ mãi mãi đẹp tươi như thế và vĩnh viễn chả bao giờ có gì “khó coi” cả.
Cuối cùng là chuyện mấy con gà. Đàn gà mà mẹ tôi vô cùng hãnh diện vì lúc khởi đầu nuôi chỉ có mấy con thôi mà chả bao lâu nhà tôi đã biến thành “trại gia cầm.”
Hàng xóm than phiền là họ không ngủ được vì tiếng gà gáy sáng. Thế mà trong bao lâu cả hai mẹ con tôi vẫn cứ ngỡ là mình đã mang lại cho cả khu phố cái không khí thôn dã êm đềm nhờ vào tiếng gà gáy trong trẻo vào mỗi sáng.
Tôi có thể thuyết phục bố tôi thôi đừng đi dạo với bộ quần áo ngủ, năn nỉ mẹ tôi đừng tiếp tục nuôi gà nhưng tôi không biết làm thế nào ngăn được ác cảm và thành kiến của người dân bản xứ. Và rồi chuyện phải đến, đã đến.
Người quản lý báo cho tôi biết họ cần lấy lại nhà để sửa. Tôi hiểu đó chỉ là một cái cớ nên năn nỉ xin ở lại và đề nghị trả tiền thêm. Tôi cũng cố giải thích cho hắn hiểu là bố mẹ tôi sẽ… chết nếu sống không có đất. Cuối cùng hắn đành nói thực:
– Từ khi tụi mày tới đây khu phố ngó bộ muốn xuống giá. Chủ nhà chủ đất nó đâu muốn như vậy. Tao chỉ là thằng làm mướn cho tụi nó thôi. Nó biểu sao là tao làm vậy hà.
Thế là thôi. Thôi giã từ căn nhà có hoa anh đào, có hương hoa chanh thoang thoảng mỗi sáng, có bầy ong nhỏ loanh quanh bên giàn khổ qua xanh lá mỗi trưa, có đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống cải lấm tấm điểm bông vàng vào những buổi chiều nhạt nắng. Người ta không thể mượn một mảnh đất để làm quê hương dù chỉ là mượn tạm để cho bố mẹ già nương náu cho hết những ngày tàn ngắn ngủi còn lại.
THẰNG LÍNH BẠC TÌNH
Nếu cấp số của đại đội là hai trăm thằng hoặc ít hơn thì bốn trung đội sẽ được chia gọn vào bốn phòng: I, II, III và IV. Vì một lý do không dễ hiểu, quân số đại đội của tôi có đến hai trăm mười mấy mạng, và theo danh sách thì tôi nằm cuối cùng; do đó, tôi và mười ba thằng kia bị đẩy vô phòng V.
Cái được gọi là phòng V, trước kia, có lẽ được dùng làm nhà kho. Người ta kê đủ bẩy cái giường đôi trong đó rồi ấn đại chúng tôi vào. Tôi không ưa nơi cư trú bất đắc dĩ này và ghét thậm tệ những thằng ở chung phòng với mình.
Hai chữ “chúng tôi”, trong trường hợp này, có lẽ cũng cần có đôi điều minh định. Mười ba thằng kia dứt khoát không phải là những sinh viên sĩ quan đàng hoàng tử tế. Phần lớn tụi nó đều là giáo sư, kỹ sư, hay cán sự gì đó và tất cả đều đã có vợ con hay đào kép lang chạ tùm lum hết trơn rồi. Trong tương lai chúng sẽ trở thành những sĩ quan biệt phái, hoặc lính ngành lính nghề vớ vẩn gì đó thôi. Còn tôi, tôi mới là sinh viên sĩ quan thứ thiệt. Với học lực được ghi trong quân bạ là “sinh viên văn khoa năm thứ hai” thì chắc chắn tôi sẽ ra trường với ám số tác chiến, và đương nhiên sẽ trở thành loại lính “bóp cò”.
Tất nhiên, tôi đủ khôn ngoan và lịch sự để không bao giờ nói ra những ý nghĩ “thầm kín” này. Tôi cũng cố không tỏ ra khó chịu hay bực bội gì cả. Nói cách khác là tôi ăn ở cư xử hết sức biết điều; thế mà, vẫn không xong, vẫn chưa vừa lòng người – những thằng người… khốn nạn! Tụi nó kỳ thị tuổi tác ra mặt.
Tất cả đồng lòng gọi tôi là “lính sữa”. Điều khổ tâm là tôi không thể nào chối cãi đuợc rằng mình không… “sữa”. Bảng tên cùng số quân bắt đầu bằng hai số “72” gắn chình ình trên đầu giường ngủ là bằng chứng hùng hồn về số tuổi đời hơi yếu của tôi. Có thằng còn tuyên bố khơi khơi là nó sẽ gả con gái út cho tôi, nếu như tôi “ăn ở và cư xử…người lớn hơn chút đỉnh!”
Cái trò chơi mất dậy làm tụi nó vô cùng thích thú là thỉnh thoảng lại có đứa nằm hát ông ổng cho cả phòng nghe: “… năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai”. Nó hát dở như cứt mà cả đám vẫn cứ nhao nhao vỗ tay tán thưởng, và thế nào cũng có một thằng chó chết nào đó xía miệng vào:
– Mà nó còn lâu mới tới hai mươi mốt tuổị Thằng này vô “động” đâu có em nào dám tiếp.
– Ủa, sao vậy?
– Mấy em sợ lỡ bị bắt thì ngoài tội mãi dâm ra còn dám bị ghép thêm tội dụ dỗ trai vị thành niên lắm.
– Đ… mẹ, vậy mà bữa trước xuống câu lạc bộ tao thấy nó cũng bày đặt mua dao cạo râụ
– Chắc nó mua để cạo lông.
– Lông nó cũng cóc có.
– Có, tao xác nhận. Bữa trước tắm chung tao thấy rõ ràng nó có mấy sợi lông rồi, lông măng!
Tụi chó đẻ cứ tung hứng như vậy hết chuyện này sang chuyện khác rồi cười rũ rượi với nhau. Thật ra, không ai bắt tôi phải nằm chịu trận mãi trong phòng với những thằng mất dậy nàỵ Vào giờ nghỉ tôi có quyền đi xem phim, mướn truyện, hay la cà tán tỉnh mấy em bán cà phê ở khu gia binh… Điều phiền là cứ mười lần bước chân ra khỏi sân đại đội là có đến chín lần tôi… mắc nạn, những tai nạn lãng xẹt mà tôi vẫn cứ bị hoài hoài.
Tôi rất hay quên đội nón, quên gài nút áo, quên gôm ống quần. Toàn là những thứ quên lãng hợp lý nhưng lại không được chấp nhận ở đời sống quân trường. Tôi thích nhìn nắng chiều hay nắng sớm lao xao trên những hàng cây nên, đôi khi, còn quên luôn cả chào huynh truởng nữa.
Có lần tôi không chào một thằng huynh trưởng thuộc tiểu đoàn 6, đại đội 61, trung đội 612. Nó móc cái nón sắt trên cột hàng rào và bắt tôi phải chào cái nón thổ tả đó 612 lần trong khi nó ung dung ngồi hút thuốc chờ tôi thi hành lệnh phạt. Nó đúng là một thằng… chó đẻ!
Lần khác, vào lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi lạng quạng sao đó nên nhìn lầm một thằng siêu huynh trưởng ra một thằng cùng khóạ Nó đang đi tôi gọi giật lại để xin mồi thuốc. Khi ánh lửa que diêm vừa lóe lên thì nó chợt nhìn ra màu khăn và màu bảng tên trên ngực áo của tôi, một thằng “siêu đàn em”. Nó gầm lên như một con hổ bị thương và bắt tôi phải “đột kích” xuống cái giao thông hào lõng bõng nước ngay trước mặt… bốn chục lần.
Sau những lần bị tai họa như trời giáng như thế tôi phải thu hết tàn lực mới lết được về phòng, nằm vật ra giường, trông thảm hại như một cái mền bông ngấm nước. Tụi mất dậy ở phòng V lại có dịp rú lên cười đùa châm chọc:
– Mẹ ơi, sao con khổ thế này!
– Đã bảo rồi, đi đâu phải có người lớn đi kèm, không bỏ được cái tật “dế mèn phiêu lưu ký” thì còn khổ nhiều con ạ.
Tôi thề có đất trời chứng giám là nếu còn sức tôi sẽ vùng dậy đấm vỡ mặt tất cả những thằng khốn nạn này. Tiếc thay, tôi lại mệt gần chết. Thể chất tôi không mạnh bằng người. Tôi phải đau buồn mà công nhận như vậy.
Tôi sinh ra trong một gia đình có đến chín anh chị em, và là đứa con ra đời ngoài dự liệụ Lúc tám tuổi, khi khổng khi không, thằng anh kế của tôi lăn đùng ra chết. Khi đó, dù đã ngoài năm mươi nhưng bố tôi vẫn còn muốn ráng có thêm một đứa con nữa, để nuôi chơi trong lúc tuổi già. Ổng “ráng” không tới mức. Nếu người ta cần phải có cỡ một muỗm tinh trùng để tạo ra một thai nhi bình thường khỏe mạnh thì bố tôi, có lẽ, chỉ còn sản xuất được cỡ chừng vài ba giọt gì thôi.
Tôi gầy yếu là phải. Tôi chịu không nổi mấy chục lần đột kích hay vài trăm cái chào tay. Tôi buồn bố mẹ tôi và giận mấy thằng bạn ở chung phòng. Tôi hay hình dung ra những màn phục thù lâm li, gay cấn.
Tôi tưởng tượng khi mình vừa ra trường đã may mắn bắn trúng ngay đầu “đồng chí” Trần Văn Trà, hay Nguyễn Chí Thanh gì đó nên được đặc cách vinh thăng lên… đại úy – và được chỉ huy nguyên cả một tiểu đoàn. Cùng lúc thế nào cũng có vài thằng, trong số mười ba thằng khốn nạn ở phòng V, bị xếp tụi nó “đì” đi tác chiến và vô phúc lọt ngay vào đơn vị của tôi.
Coi: tôi đang ngồi ở văn phòng tiểu đoàn, ve cổ áo thêu ba cái bông mai đen thui, miệng ngậm ống tẩu, mặt nghiêm và buồn. Tụi nó khép nép bước vô, kính cẩn đưa tay chào trình diện. Với tất cả uể oải và lơ đãng, tôi sẽ đưa tay lên chào lại, mắt hơi nheo nheo, và miệng thì hình như có vẻ mỉm cười… Chỉ một “show” này thôi cũng đủ làm tôi thích chết đi được và yên tâm đi vào giấc ngủ.
Tôi sẽ còn khổ lâu, không chừng là vĩnh viễn, nếu không lanh trí chụp lấy cơ hội “vùng lên làm cách mạng”. Có chiều mới đi phép vào, vừa bước vô phòng, tôi đã nghe tụi nó cười như một lũ điên. Một thằng chợt hỏi:
– Ê, bộ mày đăng báo tìm bạn bốn phương hả?
– Cái gì?
Tôi giật thót người như bị điện giật. Tôi có thể làm hàng ngàn tỉ chuyện điên rồ nhưng “đăng báo tìm bạn bốn phương” thì không, không bao giờ, Giời ạ!
– Tao thấy có tên mày trên báo nè.
Nói rồi nó thản nhiên cầm tờ Văn Nghệ Tiền Phong đọc lớn cho cả phòng nghe: “Sinh viên sĩ quan Thủ Đức hai mươi mốt tuổi đời, một phần ba tuổi lính, yêu màu tím hoa sim, thích nhạc họ Trịnh và giọng ca Chế Linh, cần tìm một em gái tuổi đôi tám… Nếu hợp sẽ đi xa trong tương laị Thư về…”.
Tôi ước ao ngay lúc đó có một quả bom nguyên tử nổ hay ít nhất thì cũng có một con rắn, loại cực độc, ở đâu đó nhào ra cắn một phát cho tôi toi mạng. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống được nữa sau một chuyện lố bịch và nhục nhã đến thế này. Cách đùa giỡn ngu xuẩn của cái thằng mả mẹ nào đó đã làm bầm dập quả tim vốn đã te tua, tan nát của tôi – từ mấy tháng nay.
Tôi hay quên cài nút quần, nút áo và hay quên chào huynh trưởng chỉ vì tôi đang… thất tình thế thôi! Tôi mới vào Thủ Đức có hai tháng thì nhận được thư của một thằng bạn. Nó long trọng buồn bã báo tin rằng “tao thấy Ngọc Quế đi với một thằng sinh viên chính trị kinh doanh”. Ủa, sao kỳ vậy kìa? “Tôi đi chinh chiến để nước yên vui” chớ đâu phải chuyện giỡn chơi, mấy cha. Sao lại có một thằng sinh viên vô lương tâm nào đó bò ngay vô mùng của người yêu tôi như vậy, hả Trời?
Tôi cố nghĩ rằng bạn mình đã trông lầm một con “khốn nạn” nào đó chứ không phải là Ngọc Quế; hoặc “lỡ” phải thì thằng sinh viên thổ tả này – chắc chắn – chỉ là một người anh em bà con vớ vẩn gì đó mà thôi. Thiệt tình, tôi muốn viết thư hỏi thăm nàng về “người bà con” đó hết sức nhưng chỉ muốn vậy thôi chớ nhứt định không làm. Tôi ghen, giận, hận, buồn và – tất nhiên – tự ái. Tôi chỉ làm hai câu thơ ngắn gửi về Đà Lạt thôi:
“Ngày xưa chán ngấy giảng đường.
Bây giờ lê buớc quân trường, chán hơn!”
Thư hồi âm chưa thấy đâu thì đã có chuyện “tìm bạn bốn phương” vô cùng tai hại nàỵ. Tôi có cái tên nghe “ba tầu” chết mẹ (tầu hơn bất cứ một anh Tầu lai hay Tàu thiệt nào đã từng hiện hữu trên cuộc đời này) nên không thể nhầm hay lộn với ai khác cả; đã vậy, chị em Ngọc Quế lại chuyên môn đọc báo Văn Nghệ Tiền Phong. Nếu mà cả gia đình nàng hiểu lầm rằng tôi đang “cần tìm một người bạn gái tuổi đôi tám”, và “nếu hợp có thể sẽ đi xa hơn trong tương lai” thì sự nghiệp ái tình của tôi đến đây – kể như – là…chấm hết!
Bất thần tôi chộp cây M16 gần nhất trên giá súng, rút lẹ một băng đạn trong ba lô, nạp đạn, lên đạn rồi dí súng vô đầu thằng đang cầm tờ báo:
– Mày xé nát tờ báo tao coi.
Thằng em còn hơi có vẻ do dự thì tôi tôi mở khóa an toàn nghe cái “cốp”:
– Chậm tay là óc mày sẽ biến thành đậu hũ tức thì…
Mặt nó đổi màu chàm, mồ hôi trán rịn ra thành giọt, nó run run xé tờ báo ra từng mảnh nhỏ. Tôi đảo mắt một vòng, mọi thằng đều lấm lét. Tôi bỏ súng trở lại giá, lững thừng trở lại giường nằm. Cả phòng im phăng phắc. Từ đó, mấy thằng em ngán tôi thấy rõ.
****
Cũng kể từ đó cho đến chiều nay, khi tôi ngồi viết nhừng giòng chữ ” thổ tả” này, đã hơn hai chục năm quạ Hai mươi năm: biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước cống, nước rãnh… đã ào ào chẩy qua cầu (và qua cống) rồi? Thời gian chứng minh cho tôi thấy là “những thằng già khốn nạn” ở phòng V đều chịu chơi và chơi được. Chính tụi nó đã dậy cho tôi những bài học để đời về tình huynh đệ chi binh.
Khi mới ra trường tôi lãnh gần trọn một mùa mưa thối rừng thối đất. Có lúc thời tiết xấu đến độ đơn vị chúng tôi bị bỏ đói cả tháng trời chỉ vì chuyện tiếp vận vô phương thực hiện. Chúng tôi ăn rau bí và rau tầu bay chấm muối thay cơm. Cho đến khi muối cũng hết luôn thì tôi bắt đầu phát… sảng. Tôi chửi rủa lung tung qua hệ thống máy truyền tin. Bộ chỉ huy không đứa nào thèm trả lời tôị Tụi nó còn dọa đưa tôi ra tòa án quân sự về tội phát ngôn bừa bãị Tôi cóc sợ. Thỉnh thoảng tôi vẫn lên máy gào thét một cách vô vọng. Có hôm, bất chợt tôi nghe tiếng hỏi:
– Phải mày đang lải nhải như một con đĩ già ế khách đó không Lê Lai – Sơn Tây?
Lê Lai – Sơn Tây có nghĩa là “lính sữa” và đây là danh hiệu truyền tin không mấy dễ nghe mà tụi phòng V đã “gắn” cho tôi kể từ khi thực tập bài học truyền tin ở quân trường. Tôi mừng quýnh:
– Phải Lê Lai – Sơn Tây đâỵ Xin lỗi thẩm quyền nào đầu máy vậy?
– Thẩm quyền cái con… mả mẹ mày! Tango – Tư Tưởng phòng V đây, nghe rõ trả lờỉ
À! thằng Tám Tàng, thằng mất dậy này sau khi ra trường về quân nhu hay quân vận gì đó. Nó thương tôi lắm. Nó “chuyên môn” lau súng giùm tôi mà.
– Ông đang ở đâu vậy Tango – Tư Tưởng?
– Tao mới về làm sĩ quan tiếp liệu cho đơn vị nè.
– Đ… mẹ, vậy thì ông phải cứu tôi tức khắc. Lính của tôi sắp chết đói hết rồi.
– Bộ mày không đói chắc?
– Ờ thì cũng đói thấy mẹ đây.
– Uống rượu được chưa con?
Thuở ấy, tôi uống rượu chưa được mấy nhưng vẫn cứ nói bừa:
– Được, dư được, nhưng lúc này nếu có cái gì để ăn thì có lý hơn.
Nó cười sằng sặc chế giễu:
– Nằm im đó đi, cỡ chiều là tao vô tới.
– Thiệt không?
– Sao không! Tao chơi chưa để thằng nào nói mà, tin đi.
Thiệt tình tôi “không tin” gì mấỵ. Tôi biết rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ aị Chỉ có trời mới gỡ được cho tôi cú này thôị Con đường duy nhất xe có thể chạy đến nơi tôi đóng quân được làm dở dang kể từ hồi còn Pháp, và đã bị bỏ hoang mấy chục năm rồị Tụi công binh mới “clear” đâu chừng được một phần ba và chưa đổ đá. Mưa khiến con đường hóa lầy và có những đoạn nước từ triền núi đổ xuống y như thác vậỵ Xe nào mà vô nổi, trừ khi Tám Tàng kiếm được một cái xe… tăng!
Tôi lại chui vào túi ngủ, lòng buồn, dạ đói, bụng hoang mang. Tôi ngủ với nhiều giấc mơ ngắn và đều có liên quan đến chuyện ăn. Tôi mơ thấy mình đi ăn với Ngọc Quế ở tiệm Tân Khánh Hoàn. Nắng chiều Đà Lạt vàng ươm, rực rỡ. Tôi gọi bao tử xào dầu hào với rau bố xôi, cơm bò xào bông cải, và chim mía rô ti…
Rồi tôi thấy mình cùng với những thằng bạn ấu thời đi bắt dế ở phi trường Cam Lỵ. Trên đường về, chúng tôi bị mắc mưa nên chạy vào buôn Thượng. Bà mẹ người Thượng già cà răng móm mém chỉ chúng tôi ngồi quanh bếp lửa rồi lấy thật nhiều khoai lùi vào trọ Khoai chín thơm lừng và thật ngọt.
Có lúc tôi lại mơ thấy một bầy heo rừng vướng mìn Claymore bị nổ thịt văng khắp nơị Cả đơn vị hớn hở vội vàng “nổi lửa”. Thịt heo nướng chẩy mỡ xèo xèo, bốc khói làm cay mắt và ứa nước bọt đến tận răng…
Rồi tôi bỗng nghe tiếng máy truyền tin rè rè cùng với tiếng Tám Tàng yếu ớt:
– Lê Lai – Sơn Tây, Lê Lai – Sơn Tây… đây Tango – Tư Tưởng…
Tôi và người lính truyền tin cùng chồm dậy, anh ta vội vàng chuyền ống liên hợp cho tôi:
– Lê Lai – Sơn Tây nghe, ông đang ở đâu vậy?
– Tao thua rồi!
Lần này thì giọng nói của nó nghe rõ vẻ thì thào. Tôi hoảng:
– Cái gì? Ông đang ở đâu mới được chớ?
– Mày đi theo con rắn lớn (con đường), qua giây ba chạc (ngã ba) một khúc xa, có thể cũng gần tớị.. Tao không biết chắc… Tao lên bộ trưởng (bị thương) rồị
– Cái gì? Đ… mẹ, đừng có giễu dở chớ Tango…
-….
-Tango… Tango…nghe không, trả lờỉ
– Nghe… mà đ… mẹ tao mệt quá rồi.Mày lẹ lên…
-Tango… Tango…
Nó im luôn. Tức tốc tôi khều thêm mấy thằng em lầm lũi đi ngược trở rạ Tôi cắm cúi lầm lũi dưới mưa mà lòng dạ rối bờị Chừng ba tiếng đồng hồ sau, theo vết trượt của bánh xe, tôi thấy một cái Dodge nằm lật nhào dưới lũng. Thực phẩm rơi đổ tung tóe theo sườn núi.
Chúng tôi chạy vội xuống nhưng đã muộn. Tám Tàng bò được ra khỏi xe, nằm nghoẹo đầu trên máy truyền tin, xác đã lạnh từ lâụ Tài xế và binh sĩ đi cùng chết kẹt trong ca bin. Chúng tôi cố mang xác họ ra cùng với cà phê, thuốc lá và cả một can rượu đế.
Trời vẫn tầm tã mưa và lẫn trong nước mưa tôi biết có nước mắt của mình. Tôi thật sự bắt đầu uống rượu từ chiều hôm đó và uống luôn cho đến chiều naỵ Đã một phần tư thế kỷ qua rồi mà mỗi lần thoáng thấy hơi men tôi vẫn nhớ đến Tám Tàng. Tôi vẫn cứ uống rượu hoài, phần lỗi, không chừng là dọ.. nó. Tôi muốn hành xác tôi chơi để Tám Tàng… vui lòng nơi chín suối.
Sau Tám Tàng, tôi gặp lại một nhân vật nữa của phòng V – ở trại tù binh. Ngày xưa, nó chính là thằng đã tuyên bố sẽ gả con gái út cho tôi nếu như tôi “ăn ở và cư xử người lớn hơn chút đỉnh”. Ở Thủ Đức ra, nó về làm sĩ quan thảo chương viên ở Bộ Tổng Tham Mưụ Nói cách khác nó chỉ là một thứ chuyên viên xử dụng máy vi tính cho quân độị Chỉ có vậy thôi mà đảng và nhà nước phải đẩy nó tuốt ra miền Bắc mới yên tâm.
Lúc chia tay nó dấm dúi hết cho tôi những thứ quà vừa nhận được của gia đình, kể cả chút tiền và ít thuốc tâỵ Tất nhiên, tôi từ chối:
– Ông cần mấy thứ này hơn tôi chớ.
Nó cầm tay tôi, nghiêm nghị y như là cảnh Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi ở Ải Nam Quan vậy:
– Tao cần mẹ gì nữa.Chuyến này kể như là tao đi đứt rồi.
– Mày còn trẻ, lại không bị tụi nó đì ra Bắc. Thủ mấy thứ này cho ấm thân và cố giữ lấy mạng để còn có lúc trở về. Phải về lo lấy lại đất nước và trả thù cho tụi tao, nhớ chưa?
– Nhớ!
Xui cho nó, tôi không thuộc típ người Nguyễn Trãị Tôi chỉ nói đại mẹ là “nhớ” để nó yên tâm đi vào chỗ chết. Thiệt tình thì tôi không nhớ gì hết ráọ Sau vài năm tù, tôi được thả về y như nó dự đoán. Có điều tôi tuyệt nhiên không hề lo chuyện “lấy lại đất nước” như đồng đội đã dặn dò; đã vậy, tôi còn bỏ nước để chạy tháo thân và lập tâm chuyến này là… dông tuốt!
Bây giờ cứ uống cho đến khi say tôi mới chợt nhớ ra mình đã từng là lính, mới ba hoa về những năm tháng tù đầy, mới khề khà luận bàn về tình chiến hữu, về chuyện đấu tranh… này nọ. Tỉnh ra tôi lại lút cút đi làm, lại sống như mình chưa hề bao giờ là lính, chưa từng có thằng vì tôi mà bỏ mạng, và có đứa đã chí tình dặn dò tôi lo chuyện quang phục quê hương. Lính có năm bẩy đường, năm bẩy thứ. Cái thứ lính như tôi ngó bộ có hơi kỳ và cũng… hơi nhiều.