Quảng Nam Qua Các Ca Dao, Tục Ngữ
LÝ TRƯỜNG TRÂN
Trong nền văn hoá dân tộc , ngoài văn chương, thi ca, hội họa,nghệ thuật sân khấu, có một số ca dao, tục ngữ, dân ca, miêu tả các simh hoạt dân gian, hoặc các tính tình, phong tục,mà mỗi khi nói đến, mọi người đêù hiễu ngay là địa phương nào trong tỉnh, chẳng khác gì giọng nói cuả mỗi vùng, mỗi miền, cùng trong một đất nước, mà qua thời gian vẫn giữ được tính cách trường tồn, bất biến.
Tỉnh Quảng Nam cũng có những câu ca dao, tục ngữ mang nặng tư duy và tình tự của ngươì dân xứ Quảng, mà mỗi lần nói lên ,không khỏi gợi những cảm tưởng nhớ nhung,thương tiếc, nhất là khi xa quê hương, hoặc lúc rời khỏi chỗ chôn nhau, cắt rốn . Những câu hát, những ca dao, tục ngữ thường là giữa đôi nam nữ, gói ghém tràn đầy tính cảm yêu đương, mộc mạc,của những hoàn cảnh xã hội đã qua, mặc dù điệu hò vẫn còn tồn tại, trở đi trở lại trên miệng dân gian, hoặc ghi trong sách báo. Dưới đây, một số ca dao, tục ngữ, hát ru em,hoặc câu hò, mà khi hát lên, mọi người đều hiểu ngay là của người dân đất Quảng ..
1.- Ðất Quảng Nam, chưa mưa đà thấm,
Rươụ hồng đào chưa nhấm đà say
, Ðối vớI ai ơn trọng, nghĩa dày ,
Một hột cơm cũng nhớ ,
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên ..
Câu nầy diễn tả rõ tánh tình người dân đất Quảng,bộc trực , bén nhạy, nhớ ơn,trọng nghĩa đối vơí các ân nhân của mình.
2.- Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế, bỏ đi không đành
Câu nầy nói lên tinh thần trọng mỹ thuật, về kinh đô đi thi, nhưng thấy các cô gái Huế thướt tha yểu điệu,đều đứng ngắm , không muốn rời bước.
3.- Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn .
Gái Quảng Nam lấy chồng ra Ðà nẵng, chiều ngó lên Ðèo Hải Vân thấy mây phủ trên Ðèo ,lại nghe chim kêu trên gành đá , cảm thấy buồn thêm.
4.- Ngó lên Hòn Kẽm, Ðá Dừng
Thương cha, nhớ mẹ, quá chừng bạn ơi,
Chiêù chiều, ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều,
Hòn Kẽm ,Ðá Dừng là 2 trái núi đâù nguồn sông Thu Bồn ,ở giữa 2 huyện Quế Sơn và Ðại lộc,làm cho những cô gái lấy chồng xa nhà , mỗi khi ngó lên rất nhớ nhà.
5.- Ai đi cách trở sơn khê,
Nhớ tô mì Quảng,tình quê mặn nồng .
Mì Quảng là món ăn chủ lực, bình dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu , mà dân Quảng ăn được tô mì Quảng thì khoái khẩu, mặn mà nhất.
6.- Hội An đất hẹp, người đông ,
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu .
Phố Hội an nhỏ hẹp ,nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi ,khi rời Hội an không làm sao quên được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây.
7.- Hội An bán gấm, bán điêù
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành .
Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp , còn Kim Bồng,Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô , chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An.
8.- Ai đi phố Hội , Chùa Cầu.,
Ðể thương, để nhớ, để sầu cho ai,
Ðể sầu cho khách vãng lai,
Ðể thương, để nhớ cho ai chịu sầu.
Những người dân Hội an ,vì sinh kế phải đi làm ăn xa, tuy nhiên vẫn thương và nhớ phố Hội.
9.- Ðưa tay hốt nhắm dăm bào,
Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công,
Không mai thì mốt, hồi công,
Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân
Kim Bồng là một xã bên kia sông, đôí diện với Hội.An,sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc,hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp,bèn hát những câu trữ tình để ghẹo chú thợ mộc.
10.- Năm hòn nằm đó không sai,
Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui,
Ngó về Cửa Ðại, than ôi,
Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình.
Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm hòn đảo, hòn Nồm là đảo nằm riêng một mình ,không chen vơí các hòn đảo khác .
11.- Sáng trăng, trải chiếu hai hàng,
Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ
. Quay tơ vẫn giữ mối tơ,
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh .
Cảnh sinh hoạt ở thôn quê, dưới ánh trăng, chàng đọc sách, nàng quay tơ, chàng nhắn với nàng giữ tình chung thủy chờ chàng.
L2.- Ai về nhắn với ngọn nguồn,
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
Người miền biển có cá chuồn làm mắm , nguời miền núi có mít non gởi xuống để trao đổi lương thực giữa 2 miền,trong muà mưa gió .
L3.- Lụt nguồn trôi trái lòn bon ,
Cha thác, mẹ còn ,con chịu mồ côi .
Mồ côi ba thứ mồ côi.
Mồ côi có kẽ trâu đôi, nhà rường
Lòn bon là môt loại trái cây,ngọt, sản xuất tại vùng núi huyện Ðại lộc, muà mưa lụt, nước lụt kéo trôi trái lón bon, mồ côi cha không quan trọng bằng mồ côi mẹ, vì bà mẹ biết lo cho gia đình, tuy mồ côi cha,nhưng nhờ mẹ mà nhà có trâu và nhà gỗ.
14.- Trà My sông núi đượm tình,
Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hoà.
Trà My là một huyện miền Thượng tỉnh Quảng Nam,có cả Thượng Kinh chung sống.
15.- Quế Trà My thứ cay, thứ ngọt ,
Nhờ tay thợ rừng mới lọt tay anh,
Phân du, bạch chỉ rành rành ,
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân.
Trà My là huyện chuyên sản xuất quế rừng, được các tay thợ rừng lột vỏ, cắt đoạn, và sắp xếp theo các hạng để định giá xuất khẩu.
16.- Gập ghềnh Giảm thọ , Ðèo Le .
Cu ngói cõng mè, cà cưỡng cõng khoai.
Dốc Giảm thọ và Ðèo Le là 2 cao độ đi lên huyện lỵ Quế Sơn, trèo qua 2 đèo nầy thì chắc giảm thọ và mệt le lươĩ.
17.-Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông.
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn ,
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn ,
Ðào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu ,
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh .
Hàn tức là tên cũ cuả Ðà nẵng, Hà Thân là xã ở bên kia sông, Tây tức là người Pháp, sông Câu Nhí là sông do người Pháp lúc mới cai trị Ðànẵng cho đào chạy qua cầu Cẩm Lệ, chàng dặn dò người yêu cố gắng ở với cha mẹ,chờ chàng về.
18.- Kể từ đồn Nhứt kể vô,
Liên Chiêủ, Thuỹ Tú, Nam Ô , xuống Hàn,
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang .
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra.
Ngó lên chợ Tổng bao xa,
Bước qua Phú Thượng, Ðai la, Cồn Dầøu
Cẩm Sa, Chơ Vãi, Câu Lâu.
Ngó lên đường cái, thấy cầu Giáp Năm.
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm ,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ .
Ðồn Nhứt là đồn gác số 1 đóng trên đèo Hải Vân và từ đó kể vào toàn là những địa danh cho đến huyện Ðiện Bàn.
19.- Kể cầu Ông Bộ kể ra,
Cây Trâm ,Trà Lý, bước qua Bàu Bàu,
Tam kỳ, Chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu Ông Tây,
Chiên Ðàn , Chợ Mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông, tây rộn ràng
Hà Lam gần sát Phủ Ðàng,
Phiá ngoài bãi cát , Hương An nằm dài ,
Cầu cho gái sắc, trai tài .
Ðồng tâm xây dựng, tương lai huy hòang
Các địa danh trên đây, kể từ trong kể ra, Lầu ông Tây tức là nhà lầu của Viên Ðại lý Hành Chánh Pháp đóng ở Tam Kỳ, còn Chợ Mới, Chợ Vạn, Kế Xuyên, Chiên Ðàn là những tụ điểm thương mãi quanh Tam kỳ.
20.- Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be .
Thiếp nói thì chàng phải nghe,
Thức khuya, dậy sớm, làm che l ngày 12 xu,
Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo ,
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau,
Lạy trời, mưa xuống cho mau.
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng .
Hội An ở gần bờ sông và có một hệ thống kè rất vững chắc xây dựng từ lâu và trên bờ kè này có một bến tàu để các ghe thuyền bốc hàng gọi là cầu Rô be,tức là bến tàu của một công ty chế biến chè của Pháp ở Hội An lúc trước. Công nhân chè chọn lá trà được phát cho 1 nệm bằng cói làm ghế ngồi, và 1 cái sàn tre để lựa chè trước khi đưa lên máy sấy. Hết mùa chè, nhà máy cho công nhân nghĩ việc, nam nữ chia tay hẹn gặp lại vào mùa sau, cầu Trời mưa sớm cho chè đâm lá, là sẽ gặp nhau lại.
Các ca dao, câu hò,bài hát, điệu ru thấm nhuần tình tự dân tộc, xuất phát từ tình yêu giữa đôi trai gái, có tính chất mộc mạc, chân tình, nói lên bản chất của người dân đất Quảng, vẫn luôn luôn tồn tại, không đổi thay, qua thời gian và không gian, giữa dòng những đổi thay của đất nước .