Phan Khôi, một vì sao lạc (1887-1959)

Nguyễn Qúy Ðại, Munich German

Phan Khôi hiệu là Chương Dân, sinh ngày 20-08-1887 (Ðinh hợi) tại làng Bảo An quận Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, thận phụ là Phó bảng Phan Trân ( 1826-1911) thân mẫu Hòang thị Lệ (1826-1882) con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-1882) .

Năm 1906 Phan Khôi ra Huế thi Hương, nhưng rớt Cử nhân được sắp vào hạng Tú tài. Ông lấy biệt hiệu Tú Sơn (Tout Seul) .

Phan Khôi xuất thân trong gia đình khoa bảng, ông nội là Án sát Phan Nhu. Phan Khôi học hán văn từ nhỏ, nhờ đọc các sách Tân thư nên có tình thần Duy Tân tin ở Dân quyền. Phong trào Duy Tân hoạt động (1906-1908) do Phan Chu Trinh (1872-1926), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) và Trần Quý Cáp (1870-1908) cùng các sĩ phu tại quê nhà lãnh đạo. Phan Khôi hưởng ứng Phong trào ra Hà Nội học chữ Quốc Ngữ và Pháp Văn tham gia hoạt động với trường Đông Kinh Nghĩa Thục mở cửa năm 1907.

Năm 1908 Phong trào bị thực dân Pháp đàn áp, tất cả đều bị bắt bỏ tù hay tử hình. Phan Khôi lúc đó ở Hà Nội, bị bắt đưa về giam ở Huyện Diên Phước (Điện Bàn), thời gian ngắn. Được ân xá ông ra Huế theo học tại trường Pellerin từ năm (1909 -1911).

Thân phụ mất về quê để tang, mở trường dạy học, hết tang ông lập gia đình (1913) nhạc phụ là ông Lương Thúc Kỳ (1867 ?) giáo viên trường Dục Anh tại Phan Thiết do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập.( Phong Trào Duy Tân)

Sinh hoạt viết Báo
Phan Khôi gia nhập làng báo chí, viết cho các báo sau

* Đăng Cổ Tùng Báo (1907) của trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
* Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến, bỏ vào Sài Gòn viết tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” thành lập từ năm 1907.

Ông ra Hà Nội tiếp tục viết :
* Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)
* Hữu Thanh (1921)

Phan Khôi trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác các tờ :
* Đông Pháp Thời Báo (1923)
* Trung Lập Báo (1924)
* Thần Chung (1929)

Tại Sài Gòn ông làm chủ bút :
* Phụ Nữ Tân Văn (1929) thời gian vì khủng khoảng tài chánh đình bản.

Ông ra Hà Nội làm chủ bút :
* Phụ Nữ Thời Đàm (1932)

Ở Huế ông làm Chủ bút :
* Tràng An (1934)
* Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936)

Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút :
* Nhân Văn tại Hà Nội (ngày 20.9.1956-15.12.1965 )

Trong thời gian nầy ông viết thêm các tờ :
* Giai phẩm (1956)
* Tuần báo Văn (1957)

Dịch và viết sách
Phan Khôi dịch bộ Thánh Kinh của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Đạo Tin Lành sang truyền giáo tại Việt Nam, chưa có Kinh Thánh bằng Việt Ngữ . Phan Khôi là nhà Nho am hiểu Pháp văn. Ông đối chiếu hai cuốn Kinh viết từ Hán Văn và Pháp văn dịch sang chữ Quốc Ngữ.(1921)
Phan Khôi gom các bài viết (1917-1945) được đang tải qua Báo chí in thành tập Chương Dân Thi Thoại (1936)
Trở vỏ lửa (cuốn tiểu thuyết ít được nhắc đến)
Việt ngữ nghiên cứu
Dịch sách Lỗ Tấn ( Chu Thụ Nhân 1858-1913)

Làm Thơ
Bài thơ Ngụ ngôn ông viết vào khoảng năm 1909 sau vụ Trung Kỳ Dân Biến (1908) vớiợ thể thơ tự do nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Vì báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ còn phôi thai

Mồng bảy tháng bảy năm Mậu thân
Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ
Bay bổng về trời dường trẩy quân
Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
Con thì kêu đói, con kêu nhọc
Bổng nghe lệnh trời truyền khởi công
Nào con đầu cúi, con lưng cong
Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc
Đụng đâu đánh đó như bao bông !
Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt
Làm có ăn không, chết cho hết
Cắn cỏ kêu trời, trời chẳng nghe
Một con bay lên đúng diễn thuyết
Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây :
Dân quyền mạnh nhầt là đời nay
Việc mà chẳng phải mà công ich
Không ai cho phép đem dân đày
Trối kệ Hoàng Ngưu với Chúc Nữ
Qua được thời qua không thời chớ ?
Quốc dân Ô thước tội tình chi ?
Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
Anh em ta, hè về quách thôi!
Luôn thể kéo nhau vào cửa trời
Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa
Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi
Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh
Đường xá sá xuôi, việc nặng nề
Phần lũ con thơ ở nhà khóc !
Trời sai Thiên lôi ra thám thính
Đầu đen máu đỏ quyết hy sinh !
Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh
Năm nay bổng thấy chiếu trời ra,
Đánh chữ đại xá trời ban cho
Dân qụa ở đâu về ở đó
Từ nay khỏi bắc cầu Ngân hà
Ờ té ra:
Mền thì ai cũng cắn!
Rắn thì thời cũng nhả .
Hằng hà sa số cu-ly quạ
Bay về hạ giới kêu kha! Ô khá !

 

Hai mươi ba năm sau bài thơ Tình Già trình làng, đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932. từ đó phong trào thơ mới được bắt đầu, lối làm thơ Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, Đường luật nhường chỗ cho phong trào thơ mới. Mở đầu cho thi ca Việt Nam phát triễn phong phú hơn.
Bài thơ Tình Già của Phan Khôi được đưa vào chương trình giáo dục (trung học) trước 1975

Hai mươi bốn năm xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẳn là không đặng
Để đến rồi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay ! Nói mới bạc làm sao chớ !
Buông nhau làm sao cho nở ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy !
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thủy chung ?
Hai mươi bốn năm sau
Tình cờ nơi đầt khách gặp nhau !
Đôi mái đầu đều bạc
Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi !
Con mắt còn có đuôi

Lý luận Phan Khôi
Phan Khôi là một kiện tướng của ” Quảng Nam hay cãi”. Người xưa nói “ quân tử hòa nhi bất đồng “ người quân tử không đồng nhất với nhau nhưng vẫn giử tư tưởng sự hòa thuận tôn trọng nhau và cộng tác. Phan Khôi ảnh hưởng Nho học và Tân học (say mê khoa luận lý học logique) có khả năng lý luận uyên bác. Ngay trong gia đình đối với thân phụ ông cũng cãi lại “ tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Đó là gia đình ông Phan Khôi, Cha Phan Khôi, một bậc đại khoa tên là Phan Trân (con án sát Phan Nhu), tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và Ông Phan Trân có hay cãi nhau như thế nào không, nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, Các cụ vẫn còn kể lại những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi bời. Điều ấy dễ hiểu : ông Phó Bảng Phan Trân bênh vựỳc cổ nhân như các bậc đại khoa thời ấy; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc Tân thư, tin ở Dân Quyền..” (Nguyễn văn Xuân Phong trào Duy Tân sđd trang 93-94 )

Phan Khôi viết bài phê bình bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim (1883-1953) xuất bản đã gây những cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh (1892-1945) vào năm 1930. (**)

Trên tờ Phụ Nữ Thời Đàm năm 1932 bài viết “ Văn minh vật chất và Văn minh tinh thần “ của Phan Khôi đưa đến bút chiến với nhà văn cộng sản Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954).

Nhằm lấy lòng Phan Khôi vì ông là Nhà Văn miền Nam có danh tiến, chính quyền Hà Nội cử Phan Khôi đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Lỗ Tấn (1881-1936) tại Bắằc Kinh (Peking) trên đất nước đàn anh cộng sản giáo điều. Nhưng Phan Khôi tranh luận cãi với cán bộ Trung Cộng về chủ nghĩa Mác xít ( Marxist) .

 

Day học và hoạt động chính trị
Năm 1934 dạy Việt văn cho trường tư thục Hồ Đắc San tại Huế.
Năm 1936 Phan Khôi dạy tại trường Chấn Thanh Sài Gòn do Phan Bá Lân làm hiệu trưởng. Năm 1941 trường Chấn Thanh dời về Đà Nẳng. Trong thời đệ nhị thế chiến (1939-1945) có thể đời sống tại Sài Gòn khó khăn, Phan Khôi về Quảng Nam.

Tình hình chính trị sôi động Việt Minh bắt thủ tiêu các đảng phái đối lập. Nhất là các đảng viên VNQDĐ. Ông Trương Phước Tường bị Việt Minh bắt tại Tam Kỳ ngày 4-2-1946. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm tượng trưng cho tỉnh Đảng bộ. Phan Bá Lân vẵn làm Bí Thư và ban chấp hành tỉnh Hoàng Tăng, Phan Khoang, phụ trách Tuyên nghiên huấn. Lê Thận phụ trách Đặc vụ ( Hoàng văn Đào sđd trang 354)

Hà Nội ngày 13-7-1946 Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở Ban Tuyên huấn Đệ thất khu Đảng Bộ của VNQDĐ tại số 9 phố Ôn Như Hầu, trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi chuyển cho VNQDĐ. Việt Minh phao tin lên rằng tìm thấy trong khu vực nhà nầy có chôn xác người lấy đó làm bằng cớ, lập biên bản kết tội VNQDĐ là tổ chức “ hắc điếm” để bắt cóc, giết người ..
Việt Minh thanh toán VNQDĐ được gọi là vụ án Ôn Như Hầu. Từ đó Việt Minh thanh toán VNQDĐ trên toàn quốc .(Minh vũ Hồ Văn Châm báo đd tr.45)

Con trai của Phan Khôi là Phan Thao (1915-1960), cũng như Phan Bôi (1910-1949) bí danh Hoàng Hữu Nam (anh em chú bác với Phan Khôi) làm thứ trưởng bộ nội vụ Việt Minh, không muốn Phan Khôi bị nạn trong trường hợp thanh trừng tại quê nhà, lập kế đưa Phan Khôi ra Hà Nội.
Tại Quảng Nam vào tháng 7-1946 tại “ Cầu Chiêm Sơn “ ở xã Phú Tân huyện Điện Bàn Việt Minh lấy cớ Quốc Dân Đản mưu toan phá hoại cầu khi có tàu lửa chở vũ khí vào Nam đã thanh toán các đảng viên VNQDĐ.
Ngày 20-10-1946 tại Hà Nội Việt Minh tấn công tòa báo Việt Nam của VNQDĐ tại số 80 đường Quan Thánh do nhà văn Khái Hưng (1896-1947) phụ trách. Tất cả bị bắt trong hôm đó có Phan Khôi.

Phan Khôi những ngày trên đất Bắc
Phan Thao( 1915-1960) và Phan Bôi ( 1910-1949) đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát . Sống biệt lập, giao trách nhiệm dịch sách từ Hán văn hay Pháp văn ra Việt Ngữ. Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ :

“ Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy dài ra
Mối sầu như tóc bạc,
Cứ cắt lại dài ra.”

Trong bài thơ chữ Nho sáng tác năm 1950 Thế Lữ dịch :

“ Một mình đêm giao thừa
Đến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
Đắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
Có vợ con mà sống chia cách
Không sinh kế đành phải ăn nhờ
Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn lần gặïp xuân rồi ! “

Phan Khôi đã ví mình như một con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc :

“ Đánh đùng một cái
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng
Trói chân, trói tay.. .. ..
Từ dây đến cái đao
Chẳng còn bao xa “

Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi, sống Bến Hải ngăn cách hai miền Nam Bắc tại vĩ tuyến 17. Gần 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Ngược lại Việt Minh cho các cán bộ Việt Minh tập kết ra Bắc khoảng 100 ngàn người và để lại một số cán bộ nằm vùng.
Gia đình Phan Khôi tập kết ra Bắc, được đoàn tụ gia đình về sống trong phòng hội Văn nghệ Hà Nội số 151 đường Trần Hưng Đạo. Tương truyền rằng trong bửa cơm người bạn mời có thịt gà Phan Khôi cầm đủa, liền chỉ dĩa thịt gà trên mâm nói rằng “ Chín năm nay tao lại gặp mầy” ( Hoàng Văn Chí sđd tr.11)
Chứng tỏ trong thời gian Phan Khôi sống trên các miền Thượng Du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lõng. Không muốn Phan Khôi chống lại chế độ

Vụ án Nhân văn – Giai Phẩm
Tết bính ngọ tháng 2 năm 1956 tại Hà Nội xuất hiện đặỳc san Giai Phẩm mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Đức ( tư nhân ) do Trần Thiếu Bảo ấn hành ( Chính Đạo Việt Nam niên biểu 1939-1975 NxB Văn hóa Houton tr. 108).

Giai phẩm Xuân nầy tập hộp các cây bút sáng tác tự do, không lệ thuộc chính quyền. Không chấp nhận sự “ lãnh đạo văn nghệ” Trong giai phẩm nầy nổi bậc nhất bài thơ “ Nhất định thắng” của Trần Dần, bị chính quyền kết án chụp mũ phản động. Báo bị tịch thâu và ngày mồng 2 Tết Bính Thân (13.2-1956) (1 )

Các văn nghệ sĩ sống tại Hà Nội chia làm hai thành phần : theo Đảng làm bồi bút . Hoặc độc lập sống nghệ thuật vì nghệ thuật. Thời bấy giờ dư luận xôn xao trong quần chúng về việc công báo kết quả các “Giải Thưởng Văn Học“ năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 112 ra ngày 15.3.1956 và báo Nhân Dân ngày 17.3.1956.
Các tác giả vừa có Tác phẩm tham dự, vừa được làm Giám khảo. Họ là văn,thi sĩ của đảng của chính quyền, nộp bài và tự chấm bài để lãnh giải thưởng. ( Tố Hữu giải nhất; giải nhì Xuân Diệu .. .)

Phan Khôi người cương trực, viết bài phê bình vạch trần những sai lầm đó . Tựa bài “ Phê bình lãnh đạo văn nghệ “ dài 14 trang giấy đánh máy, bài phê bình trên đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ngày 29-8-1965.
.“ Lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo “ đưa các vấn đềả chính : sau năm (1954) từ chiến khu trỡ về Hà Nội, thời gian chấm dứt chiếÔn tranh .Văn nghệ sĩ tiếp tục bị trói buộc trong khuôn khổ của chế độ cộng sản, không có tự do sáng tác. Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu ( Trần Dần bị bỏ tù), Văn nghệ sĩ góp tiếÔng nói ôn hòa xây đựng xả hội, không xách động bạo hành. Nhưng tiếng nói của họ bay vào hư vô .

Phan Khôi viết truyện ông Năm Chuột trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ( Giai phẩm nầy có thêm tập 2, tháng 10.1956 và tập 3 tháng 11.1956 .Giai phẩm mùa Đông tháng 12-1956. bị đóng cửa cấm phát hành)
Trong bài Phê bình Lãnh đạo văn nghệ Phan Khôi viết : “ Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường : nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường ..Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt..”
Bài báo đăng tải gây dư luận sâu rộng tại Hà Nội ” có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi “ (Hoàng Văn Chí sđd 26)

Nhân Văn
Sau Giai phẩm mùa Thu tập 1 . Tờ Nhân Văn ra đời. Phan Khôi giử chức chủ nhiệm kiêm chủ bút số 1 ra ngày 20.9.1956 đến số 6 đang in tại nhà in Xuân Thu bị tịch thu và đóng cửa ngày 15.12.1956
Tuổi đã già nhưng Phan Khôi tận lực theo đuổi lý tưởng, không sợ bạo quyền đe dọa, dùng ngoài bút đấu tranh, mong dành lại cho Văn Học Việt Nam, một chổ đứng trung thực dưới chế độ cộng sản.

“ Nắng chiều tuy có đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dầu gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng “
(Hoàng Văn Chí sđd tr 57)

Nhân Văn tờ báo như những bông hoa hương sắc đã nở ra trên đất Bắc . “ Trăm hoa đua nở ? “ không lâu “ Trăm hoa vào tù ! “ (2)

 

Báo Văn
Tờ báo Văn 10.5.1958 số 36 ngày 10.1.1958 do nhà Văn Nguyễn Hồng quản lý tòa sọan, đăng bài ông năm Chuột của Phan Khôi trong số 36. ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa (3)
Cộng sản làm cái bẩy “ Trăm hoa đua nở ” để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng : bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc.
Văn, Thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như : Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xả hội cộng sản . Hồn thơ, lời văn đã chết.
Văn nghệ sĩ tại miền Bắc sống trong đe dọa thường bị kết án phản động. Phan Khôi viết “ thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá..”
-“ nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết “
“ Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu ơi ! Ở thời cụ, cụ đã kêu : Ở đây nào phải trường thi, Ra đề hạn vận một khi buộc ràng ! Thế mà ngày, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn làm ăn gì được nữa cụ ơi ! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi !! “
Đầu năm 1956 người ta đưa cho Phan Khôi dịch cuốn sách trong đó có chữ “Pomme de terre” ông dịch chữ đó “ khoai nhạc ngựa” . Báo Cứu Quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây “ sao dịch là “ khoai nhạc ngựa” ?
Phan Khôi trả lời : ai cũng biết “pomme de terre” là “ khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “ Tây “ và chữ “ Tàu” ..vv .khi ông viết chữ “ chè Tàu” thì bị sửa lại thành “ chè Trung Quốc ”, thịt “ kho Tàu” thì đổi thành “ thịt kho Trung Quốc”.
Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ ông đã dịch chữ “pomme de terre” ông không dịch là “ khoai tây” mà dịch là “ khoai nhạc ngựa” vì theo tíếng Trung Quốc gọi là “ mã linh thự ”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán văn va Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.

Phan Khôi với “ Nắng Chiều”
Sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956 Phan Khôi, không bị tập trung cải tạo như những văn nghệ sĩ trí thức khác phải đi lao động khổ sai . Nhưng cuộc đời của ông là những ngày còn lại cô đơn !

“ Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm sao
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao”
(theo Hoàng văn Chí sđd 58)

Ngày sinh nhật thất thập của Phan Khôi đã nói:

“ Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi !
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai “

Tai vách mạch rừng đến tai nhà văn Nguyễn Công Hoan, là một nhà văn bồi bút đắc lực với chế độ Cộng sản kiếm miếng đỉnh chung, Họa lại bài thơ thật vô lễ, khiếm nhã với nhà thơ đàn anh lão thành Phan Khôi.

« Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi !
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc !
Tiết tháo ! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn nay lại hít gì voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai “
(Theo Hoàng văn Chí sđd tr.15)

Nắng Chiều là một tựa đề của tác phẩm Phan Khôi tập hộp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Bị dìm luôn không được đăng tải. Có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) viết bài trên báo nhân dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi
“ Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên..Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng một chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tõ ra một ý nào là cảm kích…”(Nguyễn Minh Cần sđd tr. 33)
Trong bài phê bình tiếp tục của tác giả Đoàn Giỏi (1925-1989) tựa đề “ tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi “ đăng trên báo Văn Nghệ số 15 tháng 8-1958.
Nhờ bài phê bình trên có trích dẫn, những bài viết trong tác phẩm cuối cùng Nắng Chiều của Phan Khôi gồm có hai phần :
* Phần một các truyện : Cầm Vịt – Tiếng Chim – Cây cộng sản
* Phần hai các truyện : Thái Văn Thu- Ông Năm Chuột- chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống và Nguyễn Trường Tộ.
Về bài “ Cây cộng sản ” được trích dẫn như sau :

“ Có một thứ thực vật cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờợ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chổ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “ cỏ bù xít” hoặc “ cây cức lợn” hoặc “cây chó đẻ” Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản “
“ Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền . Cái trình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là (herbe communiste) đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ .Tên nó là cây gì ? ông nói tên nó là ( cỏ cụ Hồ) .Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy. ( trích trong giai thoại Phan Khôi của Giáo sư Trần Gia Phụng trong đặỳc san Đất Ngủ Phụng hội ái hữu Quảng Nam Đà Nẳng Housto Texas 2001)
Phan Khôi con người khẳng khái, Sống và Viết trung thực không luồn cúi dưới chế độ Cộng sản. Để mưu cầu danh lợi. Ông sống đúng tiết tháo của một nhà nho cho đến cuối cuộc đời.
Phan Khôi một vì sao lạc về với khung trời cộng sản, đã giết chết cuộc đời văn chương của ông. Nhưng trong tuổi già nắng xế Phan Khôi đã viết và chưởi chế độ cộng sản như loại “ cỏ bù xít “ vì loại cỏ nầy có mùi hôi như con bọ xít. “Hoa cứt lợn” hay là cây “ Chó đẻ”. Tình thần sống và hoạt động của nhà văn Phan Khôi thật đáng ngưỡng mộ
Phan Khôi mất vào lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số 73 phố Thuốc Bắc Hà Nội.

Phan Khôi sống và mất như nhà thơ Phùng Quán đã viết :

“ Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết lên đá “
(Hoàng Văn Chí sđd 121)

_Hết _

 

Thành kính biết ơn thầy Trần Gia Phụng (Toronto) đã gởi tặng cuốn Án Tích Cộng sản Việt nam. Và bộ sách biên khảo Như một ngọn đèn soi sáng lại những trang lịch sử Việt Nam nói riêng quê nhà Quảng Nam.

(Sau nầy người con trai Phan Thao viết bài phê bình báo Nhân Văn do thân phụ giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ngày 16-12-1956 tại Hà Nội. Bởi vì tư tưởng không đồng nhất Phan Khôi thích Dân Quyền, ngược lại con ông thích cộng sản. “ con cãi lại cha “ )

(**)
Phan Khôi bút chiến
Phan Khôi viết bài phê bình trên Phụ Nữ Tân Văn số 54 tháng 6 năm 1930 “ Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” sau đó Trần Trọng Kim trã lời cùng tờ báo trên số ngày 10-7-1930 bài “ Mấy lời bàn với tiên sinh về Khổng giáo “ tiếp theo số báo 62 ngày 24-7-1930 Phan Khôi viết tiếp “ Sau khi đọc bài trã lời Trần Trọng Kim tiên sinh, cảnh cáo các nhà học phiệt “ Trong bài nầy có đề cập đến Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh trã lời Phan Khôi số báo 60 ngày 28-8-1930 “ Trã lời bài cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sinh “ Phan Khôi đáp lại số 70 ngày 18-9-1930 “ Về cái ý kiến lập hội Chấn Hưng Quốc Học của ông Phạm Quỳnh “
Sau bài viết của Phan Khôi trên báo Đông Phương (1933) Nguyễn Khoa Văn đả kích Phan Khôi duy tâm Phan Khôi viết lại trên Phụ Nữ Thời Đàm gây bút chiến sôi nổi về “ Duy tâm hay duy vật “

( 1) có thể đọc Internet. “http://members.aol.com/canhen/nhvan17.htm”

(2) Nhân Văn số 2 ngày 5-10-1956 : http://members.aol.com/canhen/nhvanxl.htm
Nhân Văn số 3 ngyày 20-10-1956 http://members.aol.com/canhen/nhvan7.htm
Nhân Văn số 4 ngyày 5-11-1956 http://members.aol.com/canhen/nhvan13.htm
Nhân Văn số 5 ngày 20-11-1956 (như trên)
Nhân Văn số 6 bị tịch thâu

( Hai truyện Ông bình Vôi và Ông Năm Chuột trên có thể đọc được trên Internet http://xuquang.com/links/vanhoc/phankhoi/ )

Chú thích thêm

Xuân Diệu và Tố Hữu vua của văn nghệ bồi bút
Xuân Diệu đã viết :
“ Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn..lột người từ đây
(HVC sđd 22)

Hoặc trong bài ( Trước đây bốn tháng viết 1953)
“ ..Mẹ xưa chăm cháo, chăm cơm,
Đảng nay nuôi nấng còn hơn mẹ hiền.
Bệnh từ đời cũ liên miên,
Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm..”
(HVC sđd 430)
Tố Hữu bài ( Đời đời nhớ ông viết năm 1953)
.”.Sta-lin ! Stalin !
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta lin !
————————–
Thương cha, thương mẹ,thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thành mười “
(HVC sđd 200)

 

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button