Như Một Niềm Hạnh Phúc Về Những Nhánh Sông Quê Hương
Thái Tú Hạp

Từ khi còn niên thiếu quanh quẩn trong những ngôi trường Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Sao Mai, Phan Thanh Giản, Trần Cao Vân, Diên Hồng – Hội An, Ðà Nẵng, Tam Kỳ… bao nhiêu lần ngước mắt nhìn lên không thấy cánh hạc vút qua đỉnh Sơn Trà, Ngọc Lĩnh, Hiên Giằng, Trà Mi… hay trên những khe suối xanh vòi vọi Hòn Kẽm Ðá Dừng, để tìm căn cơ của những nguồn nước khởi nguyên từ Trường Sơn ngút ngàn thăm thẳm.
Qua tháng năm trưởng thành theo những nhánh sông mang tên Thu Bồn, Giao Thủy, Ô Gia, Cẩm Lệ, Ly Ly, Vĩnh Ðiện… cuồn cuộn ra Cửa Ðại, cửa Sông Hàn… cho đến khi thăng trầm theo mệnh nước, mới chợt hiểu thân phận mình là những nhánh sông lạc loài, lận đận khổ đau, nhòa phai dấu tích huy hoàng một thuở, mộng mơ một thời trên miền đất miên viễn bất hạnh. Sông đã là biển mặn mênh mông ngàn phương lưu lạc.
Những giòng sông không còn mang tên Cửu Long, Tiền Giang, Vàm Cỏ, Thạch Hãn, Hương Giang, Hồng Hà, đau lòng chuyển hóa với Biển Ðông ngập tràn máu và nước mắt, hình thành những trang sử khát khao Tự Do và Hy Vọng.
Từ những ý tưởng trùng trùng duyên khởi hạnh ngộ hôm nay, không biết có phải tiền kiếp của những nhánh sông quê hương ngọt ngào từ những ngọn nguồn bản trạch yêu thương. Có còn chăng là chút ân tình nguyên khai nhất quán của trầm kha chia lìa, của xót xa nơi viễn xứ. Cho dù bản thể đã hòa tan vào tâm thức biển khơi nhưng bản sắc mặn nồng không thay đổi. Vẫn suối Quê Hương, vẫn sông ngòi Dân Tộc, vi vút từ ngọn đỉnh Ngũ Hành Sơn nơi cố quận.
Ðể hôm nay trùng phùng hạnh ngộ, tạo nên một giòng hải lưu kỳ diệu mang tên những Hoàng Ðịnh Nam, Mạc Phương Ðình, Quang Huỳnh, Vô Tình, Vũ Ðình Trường, cùng chung một Thu Bồn rạng rỡ yêu thương, Trường Giang nồng nàn thân thiết…
Tiền nhân đã nói “tha hương ngộ cố tri”. Ở nơi viễn phương lạc loài đơn lạnh gặp được đồng hương đã là một hạnh phúc hiếm quý, ở đây không những bắt gặp niềm sung sướng vô ngần ấy, mà còn được nghe giọng quê mộc mạc, chơn chất thân quen, chia xẻ nỗi niềm nhớ thương nồng thắm, đồng điệu ân tình nơi chốn văn thi đàn tao nhã quả thật là một diễm phúc tuyệt vời lớn lao.
Thơ hội tụ của năm người như những cánh hoa trân quý từ một đài sen tỏa ngát..
Mỗi nhà thơ là một thế giới, một hành trình riêng biệt, một sắc thái đặc thù, không thể bày tỏ tâm đắc cảm thông, chia xẻ trọn đầy từ những nỗi niềm thẳm sâu diệu vợi chỉ qua vài trang giấy khiêm nhượng mở đầu. Ở đây chúng tôi chỉ phát thảo vài nét lung linh của một vài bông hoa rực rỡ trên lối vào khu rừng ngàn sắc hoa dị thảo của Quảng Ðà thân thương.
* Nhà thơ thứ nhất là Vô Tình
Nghe thoảng đâu đây trầm hương ngậm ngùi nuối tiếc bao kỷ niệm êm đềm của những cuộc tình lãng mạn, một thời để nhớ trăm năm.
Dâu biển chưa hề phai ký ức, đâu đó vẫn còn trong tâm màu hoa đào thả trôi trên giòng suối Cam Ly nồng nàn say đắm. Chút tương tư lưu luyến mãi, nhớ nhung vô bờ.. mỗi độ xuân sang.. “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Ðào hoa y cựu tiếu đông phong” (Thôi Hộ).
Từ những thập niên sáu mươi, chúng ta đã từng đọc thơ Vô Tình trên những tập san Văn Học xuất bản ở Saigon những bài thơ tình thật dễ thương, trước sau vẫn không thay đổi. Vẫn thanh xuân đầy sinh lực. Vẫn mộng mơ và tình tứ như mây trời Ðà Nẵng – Thừa Thiên:
…
Cặp sách tui ôm – như muốn rớt
Bạn bè tinh nghịch phá đùa thêm
Ôi chao con nhỏ làm thơ ấy
Lọt mắt anh chàng xứ Quảng Nam
Văn chương Ấy viết – ừ hay thật
Ðọc mãi – tui càng thấy dễ thương
Lại khéo nịnh đầm khen đẹp nữa
Lòng tui xao xuyến nghĩa yêu thương…
…
Lời thơ xứ Huế ngày xưa
Làm tôi một thuở dại khờ yêu em
Thế rồi hoàn cảnh trái ngang
Tình kia duyên nọ lỡ làng cả đôi
Bây chừ cách trở đôi nơi
Trùng dương diệu vợi nhớ vơi thương đầy…
*Nhà thơ thứ hai là Hoàng Ðịnh Nam
Cõi thơ của anh man mác nỗi buồn ray rứt nhớ thương. Ðiêu tàn như ánh nắng chiều hiu hắt trên Cổ Viện. Ngôn ngữ thi ca đích thực đã vực dậy từ tiềm thức những hoang vu trầm thống trong sa mạc cô đơn nơi phương trời viễn mộng. Tiếng nói đã chìm trong gió bão. Sự im lặng kinh hoàng của bến bờ vô vọng. Người lữ khách lạc loài nơi xứ lạ, không biết đi đâu về đâu:
…
Thuyền về đâu trên trường giang quạnh vắng
Ðoạn mưa lay, đoạn tuyết phủ sườn non
Khúc tiễn biệt còn âm vang trong gió
Mà người đưa như khói rả trên cồn…
Ta còn gì trên hành trình chưa dứt
Người còn gì trong ký ức của ta
Cơn mưa bụi qua sông mờ, ảo cảnh
Quá khứ, tương lai – màn nước nhập nhòa…
Bến chiều nay, bến chiều nay thấm lạnh
Chuyện bếp hồng là cổ tích xa xưa
Còn có ai cùng ngồi quanh lửa ấm
Kể nhau nghe về những tối giao thừa
Thuyền lại đi và đưa ta đi mãi
Trôi miệt mài qua bến nắng sông mưa…
*Nhà thơ thứ ba là Mạc Phương Ðình
Chúng tôi đã có dịp tao ngộ với anh qua những thi tập Lời Ru Của Mẹ. Những Dòng Kỷ Niệm, khi anh về Quận Cam giới thiệu những tác phẩm của anh với bằng hữu, đồng hương Quảng Ðà. Ðọc thơ anh ngát thơm mùi quế Trà Mi, Tiên Phước, những hoa trà Kỳ Sơn, con suối Quế Tiên lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tình yêu như đóa hoa Lan Rừng khép nép bên bờ đá xanh thơ mộng:
…
Ta bắt gặp ngày xưa nơi vóc dáng
em thơ ngây nhịp guốc dưới sân trường
bao kỷ niệm của một thời áo trắng
vẫn đậm đà bao nỗi nhớ, niềm thương
Xin được giữ chút hồn nhiên thơ dại
để mang theo trên những nẻo đường đời
hoa vẫn nở dẫu tháng ngày khó nhọc
lòng vẫn vui cùng sương gió em ơi…
Nỗi lòng xa xứ, ai sầu hơn ai:
Ðêm qua trời lạnh buồn không ngủ
nằm nhớ quê hương, nhớ bạn bè
mới đó mười năm như chớp mắt
mái đầu còn mặn chút hương quê
Trường Giang sóng vỗ đau bờ cát
Núi Chúa, Dùi Chiêng dựng ngõ về
mây trắng Sơn Chà che mất lối
Ngũ Hành chuông vọng khuất sơn khê
kẻ đi lòng thẹn cùng sông núi
người ở buồn trông cảnh não nề…
*Nhà thơ thứ tư là Vũ Ðình Trường
Cõi thơ anh gợi cho tôi những kỷ niệm một thời chinh chiến.. “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi..” trong Ðường Thi hay lãng đãng nơi quê nhà trước những cơn bão lửa trần lan đất nước, đốt cháy làng xóm thân yêu. Với tôi, những hình ảnh thân thương của một thời xông pha ngoài trận tuyến đó, vẫn là những hình ảnh vĩnh viễn ở cùng với chúng tôi. Ở cùng với giai đoạn đau đớn tận cùng của Tổ Quốc. Cho dù nơi đất khách, nhưng vẫn một lòng trung trinh son sắt với Quê Hương, với chiến hữu một thời tung cánh đại bàng trên tuyến lửa liệt oanh…
…
Ðêm nhìn trăng mơ bụi hồng vạn lý
Bọn chúng mình hào khí ngất trời đông
Buồm thanh xuân căng ngợp gió tang bồng
Muốn cưỡi sóng cho trùng dương biết mặt
Có lúc đắm trên giòng sông nước mắt
Vẫn loi ngoi trổi dậy hé môi cười
Bạn long đong tráng sĩ bất phùng thời
Ta chới với giữa một trời giông bão
Giờ ta đây lạc loài trên ốc đảo
Hồn bâng khuâng mơ dưới cội mai già
Bạn cùng ta nâng chén rượu hoàng hoa
Gác kiếm rĩ quên đi thời lao nhọc
Bạn thân ơi, ta nhớ người muốn khóc…
*Và nhà thơ thứ năm là Quang Huỳnh
Nhân loại đang cuốn hút vào guồng máy u minh vọng tưởng, con nguười đang trên đà suy thoái về những khủng hoảng tinh thần, nhân tâm điên đảo, đua tranh với lợi danh, không biết tất cả đều là hư huyễn vô thường. Bắt gặp từ ý niệm trong sáng, tỏa ngát hương thiền, thẩm thấu giáo lý vi diệu, sự hiện hữu ở thế gian cũng chỉ như căn nhà ở tạm. Tất cả rồi sẽ ra đi…
Thơ của Quang Huỳnh đượm nét từ bi của Dấu Chân Vô U¨y. Anh tiếp tục khêu ngọn Hoa Ðăng Chánh Pháp với bao kỳ vọng tỏa sáng trên con đường hướng tới tương lai:
…
Có phải là ngọn đèn Chánh Pháp
Từ ngàn năm vẫn rạng rỡ lưu truyền
Từ thuở Luy Lâu, sông Nhị, núi Nùng
Và rực sáng từ Trúc Lâm, Yên Tử?
Có phải là từ một trang Kinh Kệ
tay kiếm cung mà bảo định sơn hà
Ðạo Phật Việt nam kết tinh hồn Dân Tộc
Như hơi thở người sự sống thăng hoa?
…
Ngọn lửa thiêng truyền thừa chư Thất Tổ
Thời nhiễu nhương vẫn cháy rực bao dung
Là ánh sáng tỏ soi đường Chánh Pháp
Rạng Từ Bi tâm Ðại Lực, Ðại Hùng
Hãy vững niềm tin kết thành đại nguyện
Quanh các Ngài như thành quách Kim Cương
Ðể độ dân thoát qua thời khổ nạn
Ðem an bình phổ chiếu khắp quê hương…
* Như một hồi chuông ngân dài trong tâm thức – Thật là kỳ diệu an bình…
Mỗi người một dáng vẻ lấp lánh như xâu chuỗi Kim Cương trên cành mai nở rộ. Xanh thắm núi sông bạt ngàn. Sâu sắc mênh mông trí tuệ. Có hữu hạn nào gom được hết vô hạn của thi ca hiển lộng mây trời.
Quảng Nam không hổ danh là nơi chốn “địa linh nhân kiệt”. Lừng lẫy trong cách mạng. Sáng chói trong văn chương. Tiền nhân đã làm rạng danh xứ Quảng qua bao nhiêu đời trong lịch sử Dân Tộc. Những thế hệ kế tiếp cũng đã cố gắng theo bước tiền nhân, hình thành những trang sử vẻ vang tạo nên những thành tích đáng kể về học vấn, văn học nghệ thuật nơi xứ người.
Thiền Sư Mãn Giác đã thể hiện cái tâm thức sinh tồn của tạo hóa:
…
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai…
…
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai…
Chúng ta đều hiểu không gian và thời gian chỉ là ảo mộng. Nhưng trước những “thành trụ hoại không”, đổi thay của tử sinh luân hồi… Chúng ta không bi quan sầu muộn, mà vẫn giữ trạng thái tâm an nhiên tự tại với niềm tin yêu trong từng phút giây hiện hữu. Hãy yêu đời, yêu người và làm thơ như một niềm hạnh phúc, chia xẻ với nhau những yêu thương thực thà nơi ngàn dặm lưu vong… Và chỉ trong từng giây phút ấy, đích thực chúng ta đã phục hoạt ngôn ngữ chính thống thi ca, khẳng định thể tính của những Giòng Sông tỉnh thức cội nguồn.