Nhất Linh (1905 – 1963)

Vương Trùng Dương

(Nhà văn Nhất Linh gắn liền với Tự Lực Văn Đoàn, có lẽ tên tuổi của ông được đề cập nhiều nhất trong nhiều thập niên qua. Nhất Linh đã dày công đóng góp cho nền văn học Việt Nam, thê nhưng, bởi bất đồng chính kiến, trước đây CSVN đã phủ nhận giá trị đó! Trong Tự Điển Văn Học (NXB Khoa Học Xã Hội – Hà Nội 1984) đã nói đến ông với câu kết: “Con đường nghệ thuật đó buổi đầu còn chút ý nghĩa, song đã sớm đi vào phá sản như một tất yếu” (sđd trang 113). Chân lý trở về với chân lý, xóa bỏ quan niệm bảo thủ, hẹp hòi; hiện nay rất nhiều tác phẩm ở trong nước đề cập đến giá trị sự nghiệp sáng tác nhà văn Nhất Linh và nhiều tác phẩm của ông cùng Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam… trong Tự Lực Văn Đoàn cũng được ấn hành.
Tưởng Niệm 40 năm ngày mất của Nhất Linh, Tạp chí Thế Kỷ 21, số tháng 7-2002, có nhiều bài viết mới nhất của người thân trong gia tộc và văn hữu.
Trong buổi gặp gỡ nhà văn Duy Lam vào thứ Hai 3-12 vừa qua, ông cho biết đang sưu tập tất cả tài liệu để viết về chân dung người cậu ruột của mình, tác phẩm sẽ được ấn hành trong tương lai. Năm 2004, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Nhất Linh.
Về tiểu sử của Nhất Linh và thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn qua sách vở ghi lại hơi khác nhau nên xin trích dẫn những bài viết có giao tình với nhà văn đã vĩnh biệt cõi trần – VTrD)

Nhất Linh tên thật Nguyễn Tường Tam, sinh ngày 25 tháng 7 năm 1905 tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Nguyên quán làng Cẩm Phô, Điện Bàn, Quảng Nam. Thân phụ của ông được bổ làm Tri Huyện tại Cẩm Giàng nên con cái được ra đời từ đó.
Trong quyển Hồi Ký Về Gia Đình Nguyễn Tường của bà Nguyễn Thị Thế (thân mẫu nhà văn Duy Lam), ấn hành năm 1974 ở Sài Gòn: “Thứ tự gia đình tôi theo đúng tuổi là anh cả Nguyễn Tường Thụy sau nầy làm Tổng giám đốc bưu điện, sinh năm Quý Mão (1903), anh hai Nguyễn Tường Cẩm, Kỹ sư canh nông, Giám đốc báo Ngày Nay, sinh năm Giáp Thìn (1904), anh ba Nguyễn Tường Tam, Nhất Linh, Nhị Linh chủ trương Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Bính Ngọ (1905), anh tư Nguyễn Tường Long, Tứ Ly, Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Đinh Mùi (1907), tôi Nguyễn Thị Thế, sinh năm Kỷ Dậu (1909), em sáu Nguyễn Tường Vinh (Lân), Thạch Lam trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Canh Tuất (1910), em bẩy Nguyễn Tường Bách, Bác sĩ, sinh năm Bính Thìn (1916)” (trang 39). Trong thập niên 30, 40 anh em trong gia đình ông đã dấn thân vào văn học nghệ thuật, và theo dòng thời gian, thế hệ con cháu trong đại gia đình ông đã hiện diện nhiều khuôn mặt văn nghệ, trở thành truyền thống trong dòng họ.
Thuở nhỏ, ông theo học tiểu học tại Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội, năm 1923, ông đậu bằng Cao Tiểu, làm thư ký Sở Tài Chánh Hà Nội. Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên, cũng lối xóm với nhau ở Hà Nội và tiếp tục theo học về ngành Y và Mỹ Thuật, mỗi năm mỗi ngành rồi lại bỏ. Tuy là người theo Tây học nhưng vấn đề hôn nhân, ông để cho thân mẫu quyết định, bà Nguyễn Thị Thế viết: “Mẹ dục mãi anh mới chịu đi coi. Mà có khó khăn gì đâu. Nhà cô ta ở ngay bên nhà bác Ba bạn mẹ tôi… Đám cưới xong, mẹ tôi lại đi cân gạo với các bà bạn. Anh Tam cũng thôi đi làm xin vào học trường Cao Đẳng Hội Họa. Chị Tam dọn hàng bán cau ở ngay nhà…”.
Năm 1925, ông bước chân vào làng văn với tác phẩm Nho Phong, và sau đó với tác phẩm Người Quay Tơ.
Năm 1927, ông du học tại Pháp. Theo nhà văn Duy Lam, chính phủ Pháp tài trợ một nửa cho con cái các vị quan lại có mức sống trung lưu, một nửa do gia đình. Năm 1930, ông đậu bằng Cử Nhân Khoa Học Giáo Khoa (Lý Hóa) và trở về nước trong năm đó.
Trong tác phẩm Văn Thi Sĩ Tiền Chiến của Nguyễn Vỹ, NXB Khai Trí – Sài Gòn 1969:
“Anh Phan Thanh, cựu trợ giáo người Quảng Nam, nhân viên “Đại Hội Đồng Kinh Tế và Tài Chánh Đông Dương”, và giáo sư Trung học Tư thục Nguyễn Văn Tòng, giới thiệu tôi dạy Pháp văn và Sử Ký ở trường ấy.
Đó là năm 1930. Hầu hết những giáo sư cũ đều nghỉ hoặc đi dạy các trường khác. Ông Nguyễn Tường Tam, tân Hiệu Trưởng, dùng những giáo sư mới của ông, trong số đó có thầy giáo Trần Khánh Giư.
Trường cũng đổi tên là “École Thăng Long”, ở góc đường Hàng Cột (rue de Takou), và đường Cửa Bắc (Bd Carnot), ngó ngang bót Cảnh Sát Hàng Đậu (rue des Graines), tức là con đường chạy ra Cầu Sông Cái (Bờ Sông).
Một năm sau, người ta thấy rải rác trên các vách tường trong thành phố dán một tờ quảng cáo lớn loan tin một tờ báo hài hước sắp ra đời, tên là “Phong Hóa tuần báo, Chủ Nhiệm Nguyễn Tường Tam. Tòa soạn và ban trị sự đặt tại trường Thăng Long, phố Hàng Cót” (sđd trang126-127).
Theo Nhật Thịnh trong quyển Chân Dung Nhất Linh thì: “Hồi Nhất Linh còn dạy trường Thăng Long, ông để ý tới một bài khảo luận ngắn trên báo Văn Học, ký tên Bán Than. Chắc anh chàng nầy có họ với ông Trần Khánh Dư đời Trần, tác giả bài:
Một gánh kiền khôn ruồi xuống ngàn
Hỏi chi bán đấy? gửi ông than
Đột nhiên ông nhớ tới giáo sư Trần Khánh Giư, một người kín đáo, dễ thương, từ đó hai người biết nhau. Nhất Linh thấy Khái Hưng có những khả năng hiếm có về văn chương. Ông là con cụ tuần Trần Mỹ theo học trường Albert Sarraut, đỗ tú tài Triết Học, có đủ điều kiện và thế lực ra làm quan, mà ông từ chối. Không chịu sống đời lệ thuộc. Nhất Linh nhận thấy rõ điều đó”.
Theo Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách trong hồi ký Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua: “Năm 1932, cùng một số anh em, anh sáng lập tờ báo Phong Hóa có thể gọi là mở một thời kỳ mới trong văn học. Cùng với số nhà văn tài hoa, anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn, đánh dấu sự phồn thịnh văn học. Năm 1935, tờ Ngày Nay được xuất bản. Năm 1936, anh khởi xướng Phong Trào Ánh Sáng xây dựng nhà rẻ tiền cho người nghèo”.
Năm 1932, tờ Phong Hóa phát hành hằng tuần vào ngày thứ Năm, không tạo được tiếng vang trong làng báo. Hồi ký Trong Bếp Núc Của Tự Lực Văn Đoàn, nhà thơ Tú Mỡ viết: “Bấy giờ, nhân dịp có tờ Phong Hóa của anh Phạm Hữu Ninh quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, giám đốc chính trị, loại báo vô thưởng vô phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc, sắp sửa phải đình bản. Anh Tam đề nghị với hai anh nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút, hai anh vẫn đứng tên quản trị và giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy chục bạc lương (tức là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh Mai trút được gánh nặng mà khỏi đình bản; anh Tam sẵn có tờ báo thay cho tờ Tiếng Cười chắc là không được phép xuất bản” (Tạp chí Văn Học số 5 tháng 6-1988).
Nhất Linh hiện diện trên tờ Phong Hóa, số 14 ra mắt ngày 22-9-1932, dưới hàng chữ Phong Hóa nơi trang đầu: Director politique: Nguyễn Xuân Mai, Administrateur: Phạm Hữu Minh, Directeur: Nguyễn Tường Tam.
Trong hồi ký của bà Nguyễn Thị Thế đã ghi rõ về giai đoạn nầy: “Sau khi đi Pháp về, anh Tam dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội được ít lâu, sau mở báo lấy tên “Tiếng Cười” chủ tâm đem tiếng cười ra cho mọi người vui vì thời bấy giờ nhiều người khóc quá rồi. Nào văn bà Tương Phố khóc chồng, Đạm Thủy, Tố Tâm truyện cũng lâm ly thảm thiết.
Tiếc thay chính quyền lại không hiểu thiện chí ấy nên không cho phép, sau có người bạn nhường lại tờ Phong Hóa (1932). Bao đêm anh Tam cặm cụi viết bài vì lúc đầu chưa ai cộng tác, họ lại lo ế không bán được, anh đề nghị nếu ế thì cả nhà vừa đi vừa rao bán cho kỳ hết mới chịu. Mẹ tôi bảo khó gì, nếu bán không hết, mang về cho mợ gói cau càng tiện” (sđd Trang 116)… “Báo Phong Hóa ngày càng gia tăng và số anh em cộng tác cũng nhiều , nhưng tiền vốn quá ít nên phải tiết kiệm” (trang119)… “Báo bán chạy, các anh về nói với mẹ tôi gọi cổ phần hùn vốn mua nhà in vừa in báo vừa in thuê sẽ lời nhiều. Thế là nhà in Ngày Nay ra đời” (sđd trang 120).
Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm: Nhất Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam, Hoàng Đạo, và Thế Lữ.
Năm 1936 tờ báo Phong Hóa bị đóng cửa, tờ Ngày Nay do anh ông là Nguyễn Tường Cẩm điều khiển. Tờ báo có rất đông độc giả trung thành nhưng đến năm 1940, số phát hành chót vào ngày 2-9-1940, thực dân Pháp ra lịnh cấm chỉ. Tháng 5-1945, tờ Ngày Nay tục bản được vài tháng rồi đình bản.
Theo Tú Mỡ: “Báo Phong Hóa làm ăn phát đạt, số báo in càng ngày càng tăng. Lúc đầu gặp hồi kinh tế khó khăn, mấy anh em đem hết tài lực làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh em giường cột trong tòa soạn (anh Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ) tình nguyện chỉ lĩnh mỗi tháng 50 đồng đủ sống, để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển…
Nhưng… đến cuối năm đó, tính sổ mới ngã ngửa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két nhà tư sản. Anh bèn họp với anh em phải chấm dứt tình trạng “thằng còng làm thằng ngay ăn”. Không thể chơi với nhà tư sản được…
Thế là anh em quyết định thành lập “Tự Lực Văn Đoàn” trên nguyên tắc là làm ăn dựa trên sức mình, theo tinh thần anh em một nhà: tổ chức không quá sôá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước, không cần có văn bản , điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích, tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác tuân theo”…
“… Đoàn viên nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn là những nhà văn trong tòa soạn báo Phong Hóa: Anh Tam (đứng đầu giám đốc đoàn). Các anh Long, Lân, Giư, Tú Mỡ và Thế Lữ, tất cả chỉ có 6 người. Anh Tam đề nghị kết nạp thêm một người nữa cho đủ số “thất tinh”. Anh Giư giới thiệu anh Trần Tiêu, em ruột anh, một giáo viên trường huyện, thích viết văn, đang viết truyện dài “Con Trâu”, cả đoàn đồng ý. Về sau anh Giư có ngỏ ý mời anh Đoàn Phú Thứ vào đoàn nhưng anh nầy rất tán thành mục đích, tôn chỉ của đoàn, song chỉ xin ở ngoài cộng tác cho được hoàn toàn tự do, không muốn một tí gì ràng buộc.
Sau cùng, theo đề nghị của anh Tam, đoàn chỉ kết nạp thêm anh Xuân Diệu, vị chi là “bát tú”…”
“… Phong hóa bị đóng cửa, Tự Lực Văn Đoàn không bị bó tay vì đã có sẵn tờ Ngày Nay thay thế… Có thể nói Ngày Nay là hình ảnh chân thực của tâm trí mọi tầng lớp bình dân trong nước; là người bạn tri kỷ, vui vẻ khuyên nhủ mọi người mách bảo những sáng kiến hay cần thiết cho cuộc đời mới. Việc biên soạn do những cây bút cũ của Phong Hóa cùng nhiều nhà văn mới hợp thành đội ngũ hài hòa”.
Tính tình điềm đạm, hòa nhã, Nhất Linh biết trân quý và chân tình từng cây bút, mỗi cây bút đều có sự mến chuộng của một số độc giả vì vậy phương cách xử sự của ông cũng là kinh nghiệm cho giới làm báo.
Bên cạnh lãnh vực văn hóa, Nhất Linh dấn thân vào con đường chính trị để chống Pháp, giai đoạn đó được Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách ghi lại: “Nhưng dù đã đạt tới điểm cao của danh vọng, anh cũng quyết tâm dấn mình vào cuộc đời cách mạng gian nan và đầy chông gai. Năm 1938, cùng với một số bạn hữu, anh thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Năm 1941, do Pháp khủng bố, anh phải chạy sang Trung Quốc, kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng, và hợp tác với cụ Nguyễn Hải Thần. Năm 1945, tháng 11, anh trở về Hà Nội, tổ chức hàng ngũ quốc gia chống lại Việt Minh Cộng Sản. Vì tình thế thúc đẩy, tháng 2 năm 46, anh giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Nhưng từ tháng 4-46, hai bên phá liệt, anh lại sang Trung Quốc, lưu vong một lần nữa.
Năm 1947, vì phản đối việc thoả hiệp với Pháp, anh ở lại HongKong cho tới 1951, vì sức khoẻ yếu, anh về nước, với dự tính chỉ hoạt động về văn học”.
Năm 1951, mở nhà xuất bản Phượng Giang, hậu thân NXB xuất bản Đời Nay, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1953, Nhất Linh lên Đà Lạt, sống ẩn dật với cây cảnh.
Năm 1954, đất nước bị chia cắt hai miền Nam-Bắc, Nhất Linh sống tiếp ở Đà Lạt 4 năm rồi mới về Sài Gòn để tiếp tục dấn bước trên con đường văn học và trở lại con đường chính trị vào năm 1960 khi thành lập Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết.
Giai đoạn nầy được ghi rõ qua hồi ký của người em: “Anh cả đổi vào Saigon làm việc (Giám Đốc Bưu Điện) hai năm trước hiệp định Genève. Mẹ tôi cũng vào để kịp gặp anh Tam trước khi anh sang Pháp thăm người con trai lớn du học bên đó. Ở được ít tháng anh lại về, lên ở luôn Đà Lạt vào rừng kiếm lan.
Anh rủ mấy người bạn mua đất ở Phiên Nôm bên dòng suối Đa Mê cách Đa øLạt hai mươi lam cây số, hạ cây rừng xẻ gỗ làm nhà.
Nhà mới dựng lên vì thợ sơ ý không chống kỹ nên đổ sập xuống, kèo cột gãy hết. Mẹ tôi cho là điềm không hay nên không cho dựng lại nữa. Thế là hai lần định tạo dựng đều không thành cả. Chỉ còn lại nhà bếp, mẹ tôi ở được ít lâu thì đau. Anh Tam phải đưa về ở căn nhà nhỏ của chị Tam mua từ hối 1954 ở đường Lý Thái Tổ” (NTT – sđd trang 147).
Bà Nhất Linh vẫn tiếp tục công việc buôn bán cau trầu nuôi con cái ở An Đông, Chợ Lớn. Trở về sum họp với gia đình, Nhất Linh bắt tay vào sinh hoạt văn hóa, ông là vị Chủ Tịch đầu tiên của Văn Bút Việt Nam được hình thành vào năm 1958.
Giai đoạn cuối đời được ghi nhận trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trần Văn Thanh, ấn hành tại Sài Gòn 1967:
“Đến năm 1958, Nhất Linh rời bỏ rừng núi Đà Lạt về Sài Gòn để cho ra mắt độc giả giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay (số 1 Văn Hóa Ngày Nay xuất bản ngày 17-6-58). Giai phẩm này được chiếm đa số độc giả và đã thành công rực rỡ. Những người cộng tác thường xuyên trong Văn Hóa Ngày Nay gồm có: Đỗ Đức Thu, Nguyễn Thị Vịnh, Linh Bảo, Duy Lam, Trương Bảo Sơn, Bình Nguyên Lộc, Tường Hùng.
Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bắt đầu cho đăng tập trường giang tiểu thuyết. Xóm Cầu Mới gồm có những cuốn khác như: Cô Mùi, Người Chiến Sĩ, Nhà Mẹ Lê, Người Sát Nhân, Cậu Ấm, Ông Năm Bụng. Theo Nhất Linh, ông định viết độ hai chục cuốn nữa để thành một bộ tiểu thuyết gồm chừng một vạn trang mô tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời. Mọi người đang mong thưởng thức công trình to tát ấy thì Văn Hóa Ngày Nay đến số 11 tháng 5 năm 1958 lại đình bản, và hơn một lần nữa truyện Cô Mùi và mối tình của cô cũng vì đó mà thành ra dang dở.
Trong giai phẩm văn nghệ Tân Phong ra vào tháng 8 năm 1959, ta chỉ thấy thỉnh thoảng Nhất Linh có một vài truyện ngắn, còn truyện dài trong Văn Hóa Ngày Nay không thấy ông đăng tiếp.
Năm 1961, ông cho xuất bản một tập khảo luận về tiểu thuyết nhan đề là Viết Và Đọc Tiểu Thuyết.
Dù sau này Nhất Linh khó lòng lấy lại được phong độ ngày nào của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trên tờ Phong Hóa, Ngày Nay và ngọn đuốc văn hóa mà ông đã từng cầm trong bao nhiêu năm phải trao về cho những người trong thế hệ mới, nhưng mọi người không thể phủ nhận được giá trị những công cuộc tranh đấu của ông và nhóm Tự Lực Văn Đoàn cách đây hơn ba mươi năm, nhằm mục đích chống phong kiến, chống thực dân, phổ biến những quan niệm nhân quyền và dân quyền, trình bày những quan niệm tiến bộ về cá nhân, về gia đình và xã hội.
Để phản đối chính quyền độc tài của Ngô gia. Nhất Linh đã dùng độc dược quyên sinh vào đêm 7 tháng 7 năm 1963 tại nhà riêng để lại cho mọi người thân mến và giới văn nghệ một niềm luyến tiếc chân thành. Ông thọ 58 tuổi”.
Ông để lại lời tuyên bố:
“Đời tôi để cho lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối Lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng Sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do” – Nhất Linh Nguyễn Tường Tam 7-7-1963.
Trước linh cữa của người quá cố, Linh Mục Thanh Lãng, Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam (Nhất Linh trở thành cố vấn) đã ngỏ lời tiễn biệt:
“Anh Nhất Linh, trong lúc nước mắt tràn lên các khuôn mặt này, trong lúc tiếng nấc trong các cổ họng này, trong lúc những bàn tay đang run run tung lên anh những vốc đất mà tôi gọi là những Cánh Hoa Hồng này, thì lại chính là lúc anh đi vào lịch sử giữa huy hoàng, chúng tôi đến đây để nghiêng mình trước ngai vàng lịch sử đã dọn cho anh”.
Sau ba chục năm, con cháu trong gia tộc đã đưa di cốt nhà văn Nhất Linh ở Sài Gòn và vợ ông ở Pháp trở về nguyên quán. Trong bài Nắm Cỏ ĐưaVề Tấc Đấc Xưa của nhà văn Phạm Phú Minh trong Tạp Chí Thế Kỷ 21 (tháng 7-2002) đã ghi:
“… Theo anh Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn cho biết thì năm 1975, chính quyền cộng sản giải tỏa nghĩa trang chùa Giác Minh ở Thông Tây Hội (Gia Định), anh Nguyễn Tường Thạch là là con trai Nhất Linh đã hỏa thiêu di cốt của cha và gửi bình tro tại chùa Kim Cương đường Trần Quang Diệu tại quận Ba Sài Gòn. Trong khi đó, năm 1982 bà Nguyễn tường Tam sang Pháp đoàn tụ với con, nhưng cũng trong năm nầy bà qua đời, được an táng tại nghĩa trang ở Pháp.
Năm ngoái, 2001, các người con của ông bà Nhất Linh đã quyết định dời mộ ông bà và của người con gái lớn là chị Thư về Quảng Nam, nguyên quán của gia tộc Nguyễn Tường. Hài cốt của bà đã được hỏa thiêu tại Orsay (Pháp), sau đó được hai nguòi con là anh Việt và chị Thoa đưa về Sài Gòn vào tháng Tư 2001. Anh Nguyễn Tường Thiết từ Mỹ đã về Sài Gòn trước, đón di cốt bà đưa về chùa Kim Cương, nơi nầy di cốt của ông đã được gửi thờ từ khoảng hai chục năm nay. Ngày 27-4-2001 nhà chùa đã làm lễ cầu siêu trọng thể với sự có mặt của tất cả thân thích trong họ có mặt ở Sài Gòn. Ngay sau khi lễ, di cốt của ông bà Nguyễn Tường Tam và của chị Thư được đưa lên tàu hỏa đi Quảng Nam, miền Trung Việt Nam.
Ngày 28-4-01 cử hành lễ chôn cất các di cốt tại nghĩa trang riêng của họ Nguyễn Tường ở Hội An. Mộ của ông bà Nguyễn Tường Tam nằm gần mộ cụ tổ Nguyễn Tường Phổ, người đầu tiên của họ Nguyễn Tường ra làm quan và lập ngiệp ngoài Bắc, nhưng khi mất đã được mang về an táng tại quê nhà”.
Nhất Linh là nhà văn nhà báo đã có công đóng góp cho nền văn học và báo chí Việt Nam trong thế kỷ XX. Ông học Lý hóa nhưng có năng khiếu trên nhiều lãnh vực về văn học nghệ thuật và đã thành công rực rỡ. Ông cũng am tường về âm nhạc và hội họa. “Cũng có lần nhờ tài vẽ để kiếm ăn khi lưu lạc ở Cao Miên và Sài Gòn ông đi vẽ phông các rạp hát” (Một Vài Nét Về Chân Dung Nhất Linh – Tường Hùng, Tạp chí Văn, số 61, 1-7-1966).
Với nhân cách của con người hoạt động chính trị, văn học và báo chí, Nhất Linh giữ được nhân cách của mình kể từ khi bước chân vào đời. Hình ảnh đó được thể hiện qua ngòi bút của người cháu: “Trí nhớ và sự khiêm tốn không cho tôi nói nhiều về một người chú mà tôi kính mến. Đáng lẽ tôi phải nói vài tật xấu để cho rõ chân dung Nhất Linh hơn, nhưng tôi xin thú thực sau bao năm ở gần Nhất Linh, tôi chưa được biết một tính xấu nào của Nhất Linh” (Một Vài Nét Về Chân Dung Nhất Linh – Tường Hùng, Tạp chí Văn số 61, 1-7-1966.
Theo nhận định của nhà thơ Đông Hồ trên tờ Bách Khoa số 180 (1-7-1964) cũng là ý nghĩa của mọi người về nhà văn Nhất Linh:
“Sự nghiệp của Nhất Linh ở đây thật là một sự nghiệp đáng kể mà tôi tưởng đương thời và hậu thế cũng đều công nhận”.
Tác phẩm của Nhất Linh: Nho Phong (1924), Người Quay Tơ (1926), Anh Phải Sống (cùng Khái Hưng, 1932 – 1933), Gánh Hàng Hoa (cùng Khái Hưng,1934), Đời Mưa Gío (cùng Khái Hưng, 1934), Nắng Thu (1934), Đoạn Tuyệt (1934-1935), Đi Tây (1935), Lạnh Lùng (1935-1936), Hai Buổi Chiều Vàng (1934-1937), Thế Rồi Một Buổi Chiều (1934-1937), Đôi Bạn (1936-1937), Bướm Trắng (1938-1939), Xóm Cầu Mới (1949-1957), Viết Và Đọc Tiểu Thuyết (1952-1961), Giòng Sông Thanh Thủy (1960-1961)…

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button