Nhà Nho Xứ Quảng
Ngô Văn Minh
Khi viết về địa chí tỉnh Quảng Nam, Quốc Sử quán triều Nguyễn nhận xét: “Học trò chăm học hành, quân tử giữ phận mà hổ thẹn việc bôn cạnh”, và “núi sông thanh tú cho nên nhiều người có tư chất thông minh dễ học. Sĩ phu có khí tiết cứng cỏi, bạo nói” (Đại Nam nhất thống trí)
Trong bài “Phú tỉnh Quảng Nam”, Tiến sĩ Đốc học Trần Đình Phong cũng khen ngợi xứ Quảng là vùng đất hiếu học và có nhiều người học giỏi:
Trải xem non cao thủy thanh, thấy rõ hàng châu danh thắng. Mới biết địa linh nhân kiệt nảy sinh anh tuấn khác thường Nam cung ứng tuyển nhạn tháp đề danh
Hoặc dòng dõi một nhà, khoa trước khoa sau đều đỗ. Khoa trường đã thịnh, hoạn lộ càng hanh.
Quả vậy, nói về khoa cử, Quảng Nam cũng có thể tự hào là một trong những đất học ở Nam Châu, nơi có số lượng người thi đỗ nhiều nhấtso với các tỉnh phía nam đèo Hải Vân.
Ngay từ thời các chúa Nguyễn, Quảng Nam đã có những người đỗ thi hương như Lê Cảnh, Phạm Hữu Kính, Trần Phúc Thành, nhưng tiếc rằng không có tài liệu để thống kê đầy đủ. Sang triều Nguyễn, cứ theo danh sách 5.232 vị cử nhân, trong đó trường Thừa Thiên có 911 người đăng khoa trong 32 khoa thi từ 1807 đến 1918, Quảng Nam có tất cả 252 người đỗ liên tiếp cả 32 khoa. Trong số 32 khoa này, riêng khoa thi Canh Tý (1900), ở Quảng Nam đã có đến 14 người đăng khoa mà những người đỗ kế tiếp nhau từ thứ nhất đến thứ tư là Huỳnh Thúc Kháng (Hương nguyên), Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh. Tổng cộng, sĩ tử Quảng Nam có 6 lần đỗ thủ khoa và 11 lần đỗ á nguyên thi hương.
Không chỉ có nhiều người đỗ ở hàng trung khoa (cử nhân) và rất nhiều người đỗ ở hàng tiểu khoa (tú tài), Quảng Nam còn có 39 vị đỗ đại khoa gồm 14 tiến sĩ và 25 phó bảng trong đó có một Đình nguyên Hoàng giáp là Phạm Như Xương, 2 trường hợp song nguyên là Phạm Phú Thứ và Huỳnh Thúc Kháng vừa đỗ hương nguyên vừa đỗ hội nguyên.
Nếu tính theo số dân đinh của Quảng Nam lúc bấy giờ là 51.458 người (theo Đại Nam nhất thống chí) thì tỷ lệ số người đỗ cử nhân là 0,49% và tỷ lệ người đỗ phó bảng, tiến sĩ xấp xỉ 0,08%.
Trong số những người đỗ đạt không chỉ có những trường hợp xuất thân từ gia đình khá giả mà còn có nhiều trường hợp nhà nông chân lấm tay bùn như Huỳnh Thúc Kháng “nhà nghèo không đủ tiền mua sách để đọc” (Huỳnh Thúc Kháng tự truyện) hay như Phạm Như Xương nhờ vợ “quanh năm buôn bán ở mom sông” giống với cảnh của nhà thơ Tú Xương đất Bắc Hà, còn Ngô Truân mồ côi cha từ nhỏ, phải sống ngụ cư quê ngoại, nhờ mẹ buôn tần bán tảo nuôi cho ăn học…
Thành tích thi cử không tập trung hết ở một số nơi đô hội mà phân bố khá rộng ở các địa phương, đến tận những làng miền núi hẻo lánh như Thạch Bình, Hội An (Hội An nay thuộc huyện Tiên Phước, không phải phố Hội An), Trung Phước (Tây huyện Quế Sơn). Tổng cộng có tới 123 làng có người đỗ từ cử nhân trở lên. Một số làng có nhiều người đăng khoa như làng Bảo An có đến 14 người, Mã Châu 10 người, Xuân Đài 9 người và các làng Phiếm ái, Mỹ Xuyên, Chiên Đàn 6 người. Các làng có từ hai người trở lên đăng khoa thì rất nhiều. Lại có trên 20 gia đình được liệt vào hàng thế khoa (nhiều người đỗ). Tiêu biểu có gia đình họ Hoàng làng Xuân Đài cha con, anh em, bác cháu, chú cháu đều thi đỗ (Hoàng Kim Giám, Hoàng Diệu, Hoàng Kim Huyễn, Hoàng Chấn, Hoàng Đống, Hoàng Dương). Gia đình họ Nguyễn làng Hà Lam cha con chú cháu cùng thi đỗ (Nguyễn Thuật, Nguyễn Chức, Nguyễn Tạo, Nguyễn Duật). Gia đình họ Phạm làng Mã Châu cha con, anh em cùng thi đỗ (Phạm Thanh Nhã, Phạm Thanh Thạc, Phạm Thanh Nghiêm, Phạm Cung Lượng). Hay trường hợp họ Nguyễn làng Chiên Đàn có cha Nguyễn Văn Dục đỗ phó bảng, con Nguyễn Văn Thích đỗ tiến sĩ. Gia đình họ Nguyễn Tường ở Cẩm Phô có anh Nguyễn Tường Vĩnh đỗ phó bảng, em Nguyễn Tường Phổ đỗ tiến sĩ, v.v.
Tiến sĩ khai khoa của tỉnh là Lê Thiện Trị người làng Long Phước, đỗ khoa Mậu Tuất 1838. Người đỗ cao nhất là Đình nguyên hoàng giáp Phạm Như Xương, người làng Ngân Câu đỗ năm ất Hợi 1875. Hai vị tiến sĩ cuối cùng là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đỗ khoa Giáp Thìn 1904. Tinh thần hiếu học không chỉ thể hiện ở những người trẻ tuổi như trường hợp Ông ích Khiêm thi đỗ cử nhân năm 15 tuổi được vua Tự Đức khen là “Thiếu niên đăng cao khoa” mà còn ở sự gương mẫu, chí kiên trì của những người sắp bước sang tuổi lão nhiêu như trường hợp Trà Quý Trưng đến năm 56 tuổi vẫn còn đi thi, đỗ cử nhân.
Người đương thời đã dành những danh hiệu đẹp để tặng cho sức học của các sĩ tử tỉnh nhà: “Ngũ Phụng tề phi” tặng cho 5 người Quảng Nam cùng đỗ khoa thi Mậu Tuất (1898) vinh quy trở về được tỉnh nhà đón rước với lá cờ thêu 5 con chim phụng cùng bay. Đó là 3 tiến sĩ: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn và 2 phó bảng: Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến.
Danh hiệu “Quảng Nam tứ kiệt” được tặng cho bốn người cùng đỗ phó bảng khoa Tân Sửu (1901) là Nguyễn Đình Hiến, Võ Vĩ, Nguyễn Mậu Hoán, Phan Châu Trinh.
“Quảng Nam tứ hổ” – trường hợp này nhiều tài liệu cho rằng 4 người đỗ thủ khoa trong 4 khoa thi hương liên tiếp là Phạm Liệu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Võ Hoành, nhưng khi tra cứu lại trong Quốc triều hương khoa lục, tôi nhận thấy không chính xác vì chỉ có Phạm Liệu đỗ thủ khoa năm Giáp Ngọ (1894), khoa tiếp theo Đinh Dậu (1897) thủ khoa là Lê Văn Diễn người Quảng Bình. Hai khoa kế tiếp theo sau đó thủ khoa là Huỳnh Thúc Kháng (1900) và Võ Hoành (1903). Còn Nguyễn Đình Hiến chỉ đỗ á nguyên cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng. Như vậy chỉ có thể nói 4 người đỗ cao trong các khoa thi từ 1894 – 1903, hoặc có thể đây là trường hợp chỉ 4 người Quảng Nam đỗ kế tiếp nhau từ hương nguyên đến hàng thứ tư trong cùng khoa thi Hương năm Canh Tý (1900) mà tôi đã nói đến ở trên là Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh.
Danh hiệu “Ngũ tử đăng khoa” tặng cho 5 anh em Nguyễn Khắc Thân, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Thành ý, Nguyễn Tu Kỷ, Nguyễn Tĩnh Cung người làng Túy La, trú làng Bất Nhị, trong đó 3 người đỗ tú tài là Nguyễn Khắc Thân, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Tu Kỷ, 2 người đỗ cử nhân là Nguyễn Thành ý và Nguyễn Tĩnh Cung.
Trong việc quan, nhà nho xứ Quảng được Quốc sử quán triều Nguyễn đánh giá thanh liêm, chính trực, “giỏi việc quan” hay có “đại tài về chính trị”. Trong sự nghiệp văn chương, nhiều người để lại những trước tác có giá trị. Chỉ riêng bộ Giá viên toàn tập của Phạm Phú Thứ đã có đến 26 quyển gồm đủ thể loại thơ, tấu, tự, khải… có đến 5 bài tựa, 8 bài phê bình và một bài bạt của những danh sĩ bấy giờ về bộ sách. Ông được Quốc sử quán triều Nguyễn đánh giá “về văn học tài biện thực là đứng đầu ở Nam châu” (Đại Nam liệt truyện). Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lại có đóng góp lớn cho dòng văn học yêu nước và Cách mạng đầu thế kỷ 20.
Nói về khí tiết, các sử thần triều Nguyễn cũng phải công nhận sĩ phu xứ Quảng “cứng cỏi, bạo nói”. Chúng ta đã từng nghe chuyện Ông ích Khiêm cãi nhau với Tôn Thất Thuyết, hay nhân một bữa tiệc dám chửi thẳng vào mặt những viên quan vô lại: “Chúng bay chỉ biết ăn mà khôngbiết đến nước”. Phạm Phú Thứ tuy biết mình là “kẻ hạ thần ngồi thấp nói cao”, nhưng vẫn khẳng khái dâng thư can vua Tự Đức. Sự kiện này gây chấn động đương thời đến mức Quốc sử quán triều Nguyễn cho là “lời lẽ trong thư không còn kiêng sợ” (Đại Nam liệt truyện). Đến Phan Châu Trinh, ông tuyên chiến thẳng với chế độ quân chủ chuyên chế. Trong thư gửi Khải Định ông kể 7 tội đáng chém của Khải Định và gọi đấy là một hôn quân!
Khi chủ quyền dân tộc bị đe dọa, các nhà nho xứ Quảng mỗi người một cương vị đều tỏ rõ ý thức trách nhiệm và tấm lòng son của mình bằng nhiều cách. Hoặc đánh bằng gươm, bằng giáo nơi chiến trường như Đỗ Thúc Tĩnh ở lại Nam Kỳ mộ quân chống Pháp. Hoàng Diệu thà tử tiết với thành không chịu hàng quân xâm lược; Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu hiệu triệu nhân dân trong tỉnh “kẻ trí hiến mưu, người dũng hiến sức, giàu có bỏ của ra giúp quân nhu… để chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu hồi bờ cõi”. Hoặc đánh bằng bút, bằng lưỡi như Phạm Phú Thứ đề xuất canh tân, thực hành những công việc làm cho quốc thái dân an. Và cao hơn như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng cáo từ quan tước đứng ra phát động cả một phong trào duy tân mạnh mẽ, sôi nổi ngõ hầu nhân đấy làm nên những việc hưng lợi trừ hại để dân giàu nước mạnh mà tiến tới đoạt lại lợi quyền dân tộc từ tay Pháp. Hoặc vì tranh đấu cho quyền lợi của dân chúng như Dương Đình Thưởng, Dương Đình Thạc, Lê Cơ, Ông ích Đường, Ông ích Mắng.
Điểm lại đôi nét về các nhà nho xứ Quảng để hiểu thêm về gương hiếu học, học giỏi nhằm giúp ích cho đời, hiểu về tinh thần yêu nước, cương trực, khí khái, thanh liêm, đức độ của kẻ sĩ một vùng đất thuộc miền trung đất nước.