Nguyễn Hữu Hoạt

   

Nhà văn Nguyễn Hữu Hoạt sinh quán Ðiện Bàn Quảng Nam. Trong cuộc biến động tại miền Trung đầu thập niên 60, ông là một trong những lãnh đạo phong trào học sinh Quảng Nam Ðà Nẵng đứng lên chống lại chế độ quân phiệt đang tranh quyền đoạt lợi tại Sài Gòn. Ông bị bắt và bị giam giữ tại quân lao Ðà Nẵng.Sau biến cố 1975, ông cùng gia đình định cư tại Mỹ. Tại đây, ông đã tiếp tục hành trình giáo dục một cách thành công. Ông tốt nghiệp Cữ Nhân tại đại học Oklahoma City và Cao Học tại Oklahoma State University.

Trong lãnh vực báo chí, ông là cây bút bình luận của nhiều báo chí Việt Nam tại hải ngoại và là Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Báo Dân Quyền.
Các tác phẩm:

– Quê hương và Tình Yêu (Thơ)
– Ngọn Cỏ Hừng Ðông (Thơ)
– Hành Trình Nhân Bản (Bình luận chính trị)
– Trong Chu Kỳ Chuyển Ðộng (Tham luận chính trị)

Hiện nay, ông và gia đình định cư tại thành phố Oklahoma tiểu bang Oklahoma.

 

XuQuang: Bài thuyết trình sau đây được nhà văn Nguyễn Hữu Hoạt trình bày trong Hội Nghị Nhân Quyền tổ chức vào đầu thiên niên kỷ tại Paris.

Nhân Quyền- Điểm hẹn văn minh cho
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI

Kính thưa tất cả quý vị

Lần nầy tôi trở lại thành phố Paris trong chiều hướng suy tư khác hơn với lần trước đây. Tôi muốn được nhấn mạnh ở phạm trù suy tư khác hơn vì nhân loại đang chuẩn bị bước đến thế kỷ XXI. Dĩ nhiên mọi chuyển động của nó đều có những thuận chiều và đối nghịch lẫn nhau. Xét cho cùng động tử thuận và nghịch đều có những ưu và khuyết điểm của nó nếu chúng ta nhìn ngắm dưới một cách vô tư và công bằng.
Điều khác hơn nữa, trước đây khi đến Paris tôi đã xuống phi trường Orly, nhưng lần nầy tôi lại xuống phi trường Charles de Gaulle. Động từ bước xuống và quan sát không khác nhau bao nhiêu vì nó chỉ là động từ. Tuy nhiên nhận thức(perception) về bản chất nguyên thủy của danh từ Orly và Charles de Gaulle thì lạị có những đối nghịch về hoàn cảnh, nhưng không khác nhau ở mục đích. Bởi lẽ em bé Do Thái mang tên Orly đã trốn chạy quân Hiller tìm kiếm tự do và nhân bản đến nỗi phải chết trên rừng một cách tội nghiệp và thảm thương. Riêng Charles de Gaulle đối với người Pháp hôm nay và thực dân Pháp hôm qua thì cho rằng De Gaulle là vị anh hùng đã giải thoát tự do cho dân tộc của họ. Tôi tôn trọng và ngưỡng phục ý tưởng đó của mỗi người công dân nước Pháp. Tuy nhiên, đối với cá nhân chúng tôi, một con người mang bản sắc Việt tộc thì ngược lại cho rằng thành phố Paris tráng lệ ngày hôm nay là nhờ một phần ở sự bóc lột xương máu và tài nguyên của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài 80 năm lịch sử làm nên. Trong đó ông nội tôi, cha tôi, bác tôi, anh tôi và những anh hùng Việt Nam khác đã bị thực dân giết hại không ngoài mục đích củng cố địa vị của bọn thực dân và sự phồn thịnh của nước Pháp. Có lẽ vì thế, cứ mỗi lần tôi đến nước Pháp, nhìn nước Pháp và con người, tôi có những định kiến mông lung trong quá khứ, suy tư về hiện tại và đắn đo ở tương lai. Tôi gọi nơi đây chính là quê hương của kẻ ngoại và cựu thù, quê hương của những tên thực dân đã từng hiếp dâm, đốt nhà, cướp của và phá đình làng nơi thờ cúng tổ tiên của chúng ta.
Chua chát và khôi hài hơn nữa, vào năm tôi chào đời tại Quảng Nam, cũng tại nơi đây, trong điện Chaillot đã công bố tuyên ngôn chung của bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” do một người Pháp tên là René Cassin sọan thảo và đã được 40 quốc gia bỏ phiếu thuận và 8 quốc gia bỏ phiếu trắng gồm có Liên Sô, Ba Lan, Bilelorussie, Ukraine, Yougoslavie và Tchecoslovaquite và hai quốc gia vắng mặt (Yemen và Honduras). Điều khôi hài nhất Thực Dân Pháp và Đế Quốc Anh là người cổ cõ để bản văn kia được ra đời, nhưng họ lại là hai quốc gia không muốn phổ biến rộng rãi, bởi trong thời điểm đó Anh và Pháp hiện đang còn theo đuổi chính sách thuộc địa. Tệ hại hơn nữa khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chưa ráo mực, cũng chính những chức năng ký vào bản tuyên ngôn lại là những tên thực dân cổ vỏ cho việc chém giết đồng bào tôi tại Việt Nam.
Nhìn lại giòng sử ấy, tôi ý thức và hiểu được nhu cầu khẩn thiết cho việc ra đời của Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tôi đã đọc và đã hiểu cũng như đã thấy được những khó khăn của bà Eleanor Roosevelt (phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ) khi điều hành ban sọan thảo tuyên ngôn.
Tôi đã hò reo vỗ tay và ngợi khen nội dung thực tiển của nó, vì nó đã nói lên và bảo vệ bởi những yếu tố thành văn để bảo vệ thứ quyền nhân vị của con người. Còn nữa, tôi vỗ tay bởi lẽ, ít ra trên căn bản ngọn gió nhân quyền được chứa đựng 30 điều khẳng định về quyền làm người được ra đời, để rồi sau đó gần 50 thập niên sau Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Anna nói rằng” Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người”. Dĩ nhiên cho tất cả con người trong đó có đồng bào tôi, đồng bào Việt Nam.
Song song với niềm vui đó, trong tôi nỗi xót xa chua chát vẫn chạy ngược dòng. Bởi lẽ, ô hay! Ngôn từ chuyển tiếp của nhân quyền sao mà tuyệt vời đến thế? Đất nước tôi, đồng bào tôi nhà tan cửa nát, thực dân Pháp và tay sai thay phiên nhau bức hại sao chẳng thấy ai, những kẻ đã từng soạn thảo, khuyến khích, vinh danh, tung hô và thò tay ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền lên tiếng hay can thiệp vào? Ngược lại những cha đẻ (Founding fathers) lại còn hổ trợ và viện trợ trực tiếp cũng như gián tiếp cho thực dân Pháp xâm lấn nước tôi, trong đó có Anh và Mỹ.
Kém may mắn và thê lương hơn nữa, dân tộc Kampuchia trải qua thời kỳ đen tối nhất lịch sử của họ do bởi hành động diệt chủng của Pol Pot, kẻ nội thù của dân tộc Kampuchia. Cả thế giới đã hoảng hốt và ghê tởm khi nhìn thấy hình ảnh một “Killing Field”. Thế nhưng khi hành động diệt chủng của Pot Pot bắt đầu chẳng thấy một ai lên tiếng để chận đứng hành động diệt chủng đó. Than ơi! Sao chua chát và phủ phàng đến thế?

Thưa quý vị,
Nói đến đây tôi chợt nhớ lại từ Đông sang Tây có những phù hợp tương đồng được phát sinh từ bên trong của những tư duy sáng tạo. Thứ nhất, John Lock đã đưa ra chủ thuyết tam quyền phân lập (nội chính), thứ hai Tôn Trung Sơn lại đưa Tam Dân Chủ Nghĩa. Cả hai từ John Lock cho đến Tôn Trung Sơn đều có một cái nhìn về căn bản của nền dân chủ pháp trị, dân chủ tự tồn và dân chủ độc lập. Và nếu Lock quan niệm cơ cấu một chính quyền phải được thành lập bởi Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp dùng để duy trì tính chất và nền móng cho nền dân chủ phát triển để xây dựng đất nước, thì ngược lại Tôn Trung Sơn chủ trương quyền căn bản của dân tộc, trong đó yếu tố dân tộc tự quyết là một điều (element) trong bản tuyên ngôn quốc tế Nhân Quyền. Gần hơn nữa đối tượng M.L King, Macom X hay Rosa Park, người đàn bà da đen không chịu nhường ghế trên xe bus cho người da trắng tại Montgomery là những hành động cụ thể biểu dương và bảo vệ tính cách nhân vị của con người.
Thật vậy, nhân vị của con người được đòi hỏi không phải chỉ có riêng người dân da đen hay các sắc dân nào khác hơn, kể cả tại Ấn Độ chế độ thuộc địa của Đế Quốc Anh cũng phải đầu hàng với trào lưu cải tiến của tiến trình nhân bản dân chủ, nên chế độ bảo hộ của Đế quốc đã bị đào thải bởi sức đề kháng qua tinh thần đấu tranh bất bạo động của người dân Ấn qua các phong trào đòi quyền tự do nhân bản dưới sự lãnh đạo của Thánh Gandi, buộc Đế Quốc Anh phải trao trả độc lập cho dân Ấn vào năm 1947.
Từ những xúc tác đấu tranh giành quyền tự do nhân vị và các quyền căn bản tự quyết của các dân tộc trên khắp thế giới, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ra đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1948. Dĩ nhiên bản văn trên khi được thành văn là nhờ ở sự đóng góp máu xương của nhiều sắc dân, trong đó dân tộc Việt Nam chúng ta đã gián tiếp và trực tiếp vun xới cây Nhân Quyền bằng các cuộc đấu tranh đẩm máu qua các giai đoạn sử ký tạo thành giao điểm (điểm hẹn) lịch sử bằng lý do căn bản trong điều khoản thứ nhất của Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi). Chính vì thế ở vào giữa thập niên 20, 30, 40 các nhà cách mạng Việt Nam trong đó có Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Châu Trinh, Phan Thành Tài v.v… bằng gậy tầm vông và trang bị bởi tinh thần Thánh Gióng đã nhất tề đứng dậy vận động cuộc đấu tranh toàn diện, toàn giới, cả nước, mọi nơi, từ thành thị cho đến thôn quê để đòi hỏi dân quyền dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Chắc hẳn trong chúng ta vẫn còn nhớ phong trào chống lại xâu cao thuế nặng và đòi tự do dân chủ của chí sĩ Phan Châu Trinh lãnh đạo tại Quảng Nam đã là tiếng chuông ngân mãi trong dòng sống Việt. Tiếng chuông ấy chẳng những chỉ cảnh tĩnh ở khúc quanh lịch sử mà còn là ngọn lửa soi sáng cho thế hệ mai sau.
Từ những cốt lõi trên, thực dân Pháp và quân phiệt Nhật không còn lối thoát nào khác hơn đã phải chấp nhận cuộc tháo chạy bởi lòng bộc phát ở dân tộc phục hoạt yếu tố dân quyền. Mặc dầu cuộc tháo chạy trên của thực dân và quân phiệt không do bởi những ràng buộc của Tuyên Ngôn Nhân Quyền, mà do chính lòng đoàn kết của khối đại dân tộc Việt đóng vai trò chủ lực. Tuy nhiên các điều khoản trong văn kiện nhân quyền đã là kích thích tố và còn là động cơ đưa con người bước vào những quy luật được quốc tế đặt ra.
Từ những căn cơ bên ngoài và các manh nha bên trong, đất nước ta khi bắt đầu rời bỏ chế độ quân chủ, lại gặp phải chế độ nô dịch ngoại lai. Trên lý thuyết họ hình thành một định chế dân chủ cũng theo khuôn mẫu của Lock, nhưng đàng sau được lèo lái bởi những tên tư bản đỏ. Vì thế, dân quyền đối với người Việt Nam vẫn còn là một đề tài nhức nhối cần phải được lật ngược và bàn cãi hầu đáp ứng được ước vọng quần chúng dựa theo các quy luật hữu thệ và tự nhiên của con người kinh qua các định chế chính trị dân chủ phát sinh ở sản phẩm của trí tuệ mà ra. Chính vì thế, bức thông điệp Nhân Quyền phải được các cơ phận thừa sai thi hành một cách tuyệt đối và đúng đắn, trong mục đích chuyển hóa các định chế chính quyền từ chỗ độc tài trở thành dân chủ, khổ đau trở thành hạnh phúc và lạc hậu trở thành văn minh, đúng như lời Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng tại vườn Lâm Tỳ Ni cách đây 2500 năm.
Thưa quý vị,
Chuyển hóa chính quyền từ độc tài trở thành dân chủ, tôn trọng phẩm giá của con người và “mọi cá nhân đều có quyền sống, quyền tự do, quyền an ninh bản thân” thuộc về điều khoản số 5 trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Hành động chuyển hóa chính quyền từ chỗ độc tài trở thành dân chủ là một định nghĩa rõ ràng và xác thực trong tư tưởng của Đức Thích Ca đưa ra làm căn bản cho một chính quyền đại nghị, dân chủ hầu kiến dựng đất nước trần thế. Chính vì thế, đất nước ta trải qua những thăng trầm trong các giai đọan lịch sử, Phật Giáo Việt Nam lấy từ căn bản đó đã đóng góp tích cực vào việc bảo vệ quyền làm người, quyền tự do tín ngưỡng để hoằng dương đạo pháp và xây dựng đất nước, chống lại mọi hành động thống trị của các đế quốc khác. Do đó, trong suốt cuộc chiến chống lại thực dân, con người Phật Giáo nói riêng và Việt Nam nói chung đã ý thức rõ rệt và hành xử một cách khẩn cấp phân minh, đứng đắn trong vai trò và vị trí của mình, cũng như trong cuộc chiến chống lại các nô dịch văn hóa, Phật Giáo đã biến mình trở thành những chiến sĩ nghĩa quân trân trọng bảo vệ thành trì văn hóa dân tộc bất khả xâm.
Từ những nhận thức trên, giai đoạn hiện nay và kế tiếp người Việt Nam nói chung, không có sự khác biệt ở yếu tố địa dư hay tôn giáo sẽ tiếp tục lên đường quyết tâm đòi hỏi đúng và trọn vẹn vai trò của mình cũng như ý thức về quyền nhân vị, đặt tổ quốc lên trên và sẽ coi mình như một lực lượng nòng cốt, yêu tổ quốc, chủ lực của dân tộc sẵn sàng xung xích vào bất cứ hoàn cảnh nào, để có thể thích hợp và hòa đồng cùng mọi xu thế thời đại trong đó hệ tư tưởng dựng nước cứu người là yếu tố duy nhất, lưỡng nghi, trên cao, trước hết và có sự đồng thuận của đại đa số dân tộc. Trọng tâm và thực tiển hơn nữa, bức thông điệp Nhân Quyền khi khởi sinh vào năm 1948 đã đánh dấu tiến trình văn minh của nhân loại có sự đồng thuận và đáp ứng khát vọng của con người. .
Ấy cũng là trọng tâm của cuộc hội luận hôm nay trước điểm hẹn văn minh cho Việt Nam bước vào thế kỷ 21 và cũng là những trăn trở của chúng ta đối với quê hương đất nước. Xin cám ơn quý vị đã chia xẻ và lắng nghe bài tham luận nầy.
Thành thật cảm ơn quý vị

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button