Người Việt tại Cộng Hòa Liên Bang Đức và tàu Cap Anamur

Nguyễn Qúy Ðại

Trình trạng kinh tế suy thoái thất nghiệp từ năm 1929, Adolf Hitler được sự ủng hộ đa số phiếu của phái bảo thủ lên cầm quyền từ năm (1934-1945). Sau thời gian củng cố quyền lực, tước quyền 6 triệu người Do Thái, đưa họ vào các trại tập trung, lò hơi ngạc giết chết hàng loạt. Hitler ra lệnh tổng động viên ngày 01.9.1939 chớp nhoáng đánh chiếm Poland, tháng 4.1940 chiếm Danmark và Norway, tháng 5 đến tháng 6 chiếm Holland, Belgium, France, Luxenbourg, tháng 4 chiếm Yugoslavia, Greece, tháng 6.1940 chiếm các lãnh thổ của Nga (Sowjetunion) : Estonian, Latvia, Lithuania .. Stalingrad thế chiến thứ hai khởi đầu .

Thời gian chiến tranh dân tộc Đức gánh chịu nhiều khổ đau, từ 1944-1945, bị quân đội tứ cường Anh, Mỹ, Pháp, Nga phản công chiếm đóng, các thành phố bị ném bom hư hại..Riêng Berlin bị 2643 tấn bom, làm 70% nhà cửa hư hại, 49600 người chết.. Berlin dù được tái thiết nhưng còn lại ngôi Giáo đường cụt đầu, đó là di tích của chiến tranh

Hồng quân Nga trả thù tàn sát, hảm hiếp, cướp của, đốt phá,… Hàng trăm ngàn người Đức phải chạy trốn bằng đường bộ, dưới trời đông tuyết giá, hoặc dùng tàu, thuyền chạy trốn, bị tàu ngầm Nga húc chìm khoảng 9000 người chết.

Ngày 30.4.1945 Hitler tự tử người kế vị Karl Doenitz đầu hàng vô điều kiện ngày 9.5.1945 (1). Chiến tranh để lại đau thương, nghèo đói và đổ nát … nước Đức bị chia đôi ! từ năm 1949 phần đất phía Tây Berlin do quân đội đồng minh chiếm đóng thành lập Cộng Hòa Liên Bang Đức , thủ tướng đầu tiên Theodor Hess (1949-1954) . Phần đất phía Đông do Hồng quân Nga cai trị, thành lập Cộng Hòa Dân Chủ Đức (DDR) theo chủ nghĩa cộng sản dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Wilhelm Pieck (1949-1960)

Các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga tái chiếm thành lập khối cộng sản, xây hàng rào ngăn cách, gây cuộc chiến tranh lạnh từ năm1946, biên giới dài 1378,1 Km, từ biển Đông Hải (Ostsee) đến cuối biên giới Tiệp Khắc (Tschecholoslowakei ) gồm 1266,5 km bằng kẻm gai (MGZ) và 1196,4 km kiểm soát bằng điện (SSZ) rộng 10 m, tất cả 621 chòi canh gát , 595 hầm trú ẩn , (2)

Từ năm 1952 đến 1961 hơn 3,5 triệu người bỏ Đông Đức (DDR) không chấp nhận chế độ cộng sản độc tài, sang Tây tìm tự do . Chủ tịch đảng Walter Ulbricht (1960-1973) ra lệnh xây bức tường ngăn cách Đông và Tây Đức vào đêm 12 rạng ngày13.08.1961 dài 168,8 km, chia thành nhiều đoạn ,107km bằng beton , 60 km hàng rào kẻm gai. Tại Berlin tường cao từ 3,50 đến 4,20 m dày 50 cm, việc xây tường làm 10 ngàn căn nhà bị phá hủy, 1233 cửa sổ các nhà lân cận xây kín, từ tường ra100m là bải mìn, có đặt súng bắn tự động (295 chòi kiểm soát 43 pháo đài).

Bức tường ô nhục chỉ tồn tại được 10.315 ngày (22 năm), đêm 09.11.1989 Brandenburger Tor mở cửa, kế tiếp ngày 01.12. 1989 mở toàn bộ 22 cửa thông thương , tường đập bỏ chỉ còn lại vài nơi lưu dấu tích lịch sử. và tưởng nhớ 201 người bị bắn khi vượt tường tìm tự do.

Ngày 03.10.1990 nước Đức thống nhất có 16 tiểu bang, diện tích 357.022 km2 dân số 81,8 triệu trong đó có 7,3 triệu người ngoại quốc. Quân đội tứ cường có mặt từ ngày 5.6.1945 chấm dứt nhiệm vụ đóng quân tại Berlin và Liên Bang Đức ngày 12.09.1990

Đệ nhị thế chiến chấm dứt, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc nội chiến (quốc cộng). Ngày 30-04-1975 kết thúc chiến tranh, dân Miền Nam bị trả thù . Hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, các chuyên gia của chế độ cũ bị đưa vào trại tập trung cải tạo trong rừng sâu nước độc, đánh tư sản đuổi họ đi vùng kinh tế mới, đổi tiền làm suy thóai kinh tế miền Nam.

Từ đó làng sóng người đi tìm tự do, băng rừng vượt núi sang Campuchia tìm đường đến Thái, hoặc thuê mướn ghe thuyền đánh cá chạy trốn trên Thái bình dương, đôi khi bị lường gạt mất hết vàng bạc, bị bắt đánh đập tàn bạo, nhưng không làm dừng bước người vượt biên dù sóng to gió lớn, hải tặc Thái Lan, để rồi không biết bao nhiêu người bị chôn vùi dưới lòng đại dương.

Làm xúc động lương tâm Thế giới , Cao ủy tị nạn UNHCR (Unitet Nations High Commissioner for Refugees ) mở vòng tay đón nhận người Việt tìm tự do, vào các quốc gia trên thế giới.

 

Lòng nhân đạo của Cộng hòa liên bang Đức

Hội nghị tại Genève vào tháng 6 năm1979 tổng thư ký Guenter van Well thay mặt chính phủ Đức đồng ý thâu nhận 10.000 người tị nạn Việt Nam, (số người của tàu Hải Hồng và các trại tị nạn Á Châu, các tàu buôn mang cờ Đức được phép cứu vớt thuyền nhân)

Tiến sĩ Rupert Neudeck sinh 14.5.1939 tại Danzig (cùng quê với nhà văn Guenter Grass và Lech Walesa) lúc lên 6 tuổi cùng mẹ và bốn người em chạy trốn Hồng quân Nga (cha bị bắt vào quân đội) , nhìn thấy nhiều người chết trên biển Đông Hải và trong cuộc chiến.. Người Việt tị nạn chạy trốn trên biển bằng thuyền nhỏ, làm ông hồi tưởng lại cuộc đời đau khổ trãi qua. Ông vận động các Nhà văn , Nhà báo, Chính trị gia vv…như Heinrich Boell (1917-1985 giải thưởng văn chương Nobel 1972 ) Martin Walser, Gunter Grass (giải Nobel 1999), Hilde Domin, Dieter Wellershoff, Carl Amery(chủ tịch Hội văn bút 1989-1891) Franz Alte , Matthias Walden, Wener Hofer, Carola Stern, Akfred Biolek và Kabarettisten, Dieter Hildebrandt , Helga Schuchardt (FDP) Norbert Blum (cựu bộ trưởng lao động), Elmar Pieroth, Matthias Wissmann (CDU) Volker Neumann và Ootergetelo (SPD) vv..(3)

Ngày 24.07.1979 chương trình truyền hình “ Report Baden Baden” do ông Franz Alte điều khiển , tổng thư ký Walter Bargatzky của Hồng Thập tự Đức và Dr. Rupert Neudeck nói về trình trạng thuyền nhân Việt Nam “ một con Tàu cho VN “ đến ngày 27.07.1979 nhận được 1 triệu 2 DM ủng hộ vào trương mục của Hội Hồng Thập Tự và được sự giúp đỡ của “ Hiệp Hội Bác Sĩ Không Biên Giới“ gởi các Bác sĩ và Y tá theo giúp con tàu hoàn toàn thiện nguyện

Cap Anamur ra đời ngày 09.08.1979 lúc 15 giờ.04 từ hải cảng Kobe Nhật Bản con tàu ra khơi trên đường hướng về biển đông mang tên “Port de Lumiere“, các bác sĩ , y tá phục vụ, chửa trị cho người bị kiệt sức do thiếu nước và lương thực, nhiều ngày trên biển da bị cháy nắng, bị hải tặc hảm hiếp vv.

Cap Anamur hoạt động đến 26.6.1982 , cứu vớt 8572 người, đưa vào các trại tị nạn Singapor đường 25 Hawkins Road Sem Bawang , Palawan (Phi luật Tân) Galang(In Đô) tạm trú thời gian ngắn chờ định cư Tây Đức hoặc các đệ tam quốc gia trên thế giới . 22 tháng hoạt động, mỗi tháng tốn 400 ngàn DM , theo tuần báo Stern tính cứu một thuyền nhân tốn khoảng 1075DM (4)

Con tàu ra khơi kéo dài cả tháng, hay vài tuần lênh đênh trên biển , chạy dọc theo hải phận quốc tế , hay vào hải phận Việt Nam để cứu vớt người, trực thăng bay tìm ghe vượt biên, chụp hình và cảnh cáo hải tặc Thái đánh cướp thuyền nhân ném người xuống biển.. Cap Anmuar 1 vớt hơn 22 chuyến (được tính thứ tự từ Cap Anamur 1 đến 5 vào cảng Singapor, Cap Anamur 6 vào Galang …) Cap Anamur ngưng hoạt động, về lại Hamburg lúc 12.30 ngày 26.7.1982 trên tàu có 287 thuyền nhân. Được hàng ngàn người Việt-Đức đón tiếp, quốc ca Việt nam được hát dưới rừng cờ vàng

Bốn năm sau con tàu (Cap Anamur 2) tiếp tục ra khơi, dù không được tiếp tục ủng hộ như lần đầu . Bởi vì “nhiều người ra đi không phải vì lý do chính trị, gởi trẻ em vượt biên mong được bảo lảnh cả gia đình đoàn tụ …. định cư thời gian ngắn du lịch Việt Nam“ nhiều người bị phòng ngoại kiều cảnh cáo hay thu hồi quyền tị nạn..

Từ 03.3.1986 Cap Anamur hoạt động đến tháng 5 .1986 cứu được 88 ghe tổng số 888 người. với 5 tuần lễ qua kinh đào Suez , biển địa trung hải mang theo 357 người, về cảng Hamburg , các tiểu bang chia nhau nhận số người trên ,

Tháng 4 năm 1987 Cap Anamur 3 cứu 14 thuyền tổng số 905 người được Pháp và các quốc gia khác thâu nhận, Cap Anamur chấm dứt mọi hoạt động vào ngày 22 .7 .1987 .Tổng kết thuyền nhân được vớt 9507 người, chưa tính số người được bảo lảnh đoàn tụ gia đình.

Con tàu mang tên “ Mary Kingstown“ mang cờ vương quốc Monaco, được xem là(Cap Anamur 4) hoạt động trên biển đông , chỉ cấp nước, thực phẩm thuốc men , ngăn ngừa bớt nạn hải tặc Thái cho hơn 35.000 thuyền nhân. Số người nầy đã cập bến tìm tự do an toàn, và đi định cư khắp nơi trên thế giới. Nếu không có con tàu Cap Anamur cứu vớt , giúp đỡ thuyền nhân, không biết bao nhiêu tai họa đến với chúng ta ngoài biển khơi !! nhiều ghe tàu cập bến xin tị nạn, bị xua đuổi kéo ra khơi bị bảo tố đánh chiềm ..

 

Thuyền nhân hội nhập

Người Việt tị nạn phân chia định cư theo từng tiểu bang, học Đức ngữ từ 8 đến 10 tháng, được hướng dẫn tìm việc làm hoặc tiếp tục học nghề, muốn thi vào các đại học, được hội (Otto Benecke Stiftung) cấp tiền học thêm khóa Đức ngữ .

Người tị nạn kể cả đoàn tụ gia đình (vợ chồng, trẻ em dưới 18 tuổi làm thủ tục bảo lãnh gia đình, thời gian khoảng 2 năm. Bộ ngoại giao can thiệp với chính quyền Việt Nam cho phép số người đoàn tụ gia đình, tiền vé máy bay ăn học được chính phủ giúp đở (nếu tính chung số người tị nạn tại Đức khỏang 68 ngàn người)

Nhiều hội đoàn ra đời sinh hoạt, những năm đầu các báo được xuất bản như Độc lập, Viên Giác , Dân chúa, Nhịp cầu , Giao điểm, Vượt sóng vv..Giúp cho người Việt những thông tin và sau đó ra đời nhiều bản tin, báo của các Hội đoàn, Luôn nêu cao tinh thần đấu tranh chống cộng, tranh đấu tự do cho Việt Nam.

Hằng năm vào ngày 30 tháng 4, người tị nạn thường về Bonn biểu tình tham dự đêm không ngủ, thảo luận và tưởng nhớ Quê hương do tổ chức của (Hội Sinh Viên và Kiều bào Việt Nam) thời gian sau (Liên Hội Người Việt Tị Nạn Tại CHLBD)

Người tị nạn ủng hộ các phong trào đấu tranh, ước mong ngày quang phục Quê hương, nhưng xảy ra vài trường hợp làm mất niềm tin, và thêm vào phong trào du lịch Việt Nam từ đó tinh thần đấu tranh hơi chùn bước.

Dần dần đời sống được ổn định, người ngoại quốc sống 7 năm hội nhập xã hội, có công việc, thông hiểu ngôn ngữ được phép nợp đơn xin nhập tịch, và phải thi hỏi về luật căn bản, viết chính tả … (tùy theo tiểu bang)

Muốn nhập tịch phải từ bỏ quốc tịch gốc, đây là vấn nạn của người tị nạn phải liên lạc sứ quán cộng sản. Thời gian chờ đợi giấy từ bỏ quốc tịch thường kéo dài đến 14 tháng hay lâu hơn. dù phải trả 12% tiền lương đã trừ thuế. đôi khi gặp khó khăn..phải đến sứ quán xếp hàng chờ đợi trả tiền nhận giấy.. Tuy nhiên từ năm 2000 được quốc tịch đôi không cần giấy từ bỏ quốc tịch .

Bằng cấp phải dịch ra tiếng Đức kèm theo bản chính, gởi đến cơ quan công nhận (Zeugnisanerkennungsstelle) sắp loại : tú tài trước 1975 tưng đương tú tài Pháp, phải qua kỳ thi Đức ngữ và toán, học dự bị đại học, sau đó chọn các phân khoa (tùy theo mỗi tiểu bang) bằng phổ thông sau 1975 được xem trình độ lớp 10, phải vào trung học, học thi tú tài nhanh lắm phải mất 3 năm. (nếu đã học đại học được xem như tú tài trước 75)

Các Linh Mục được phép tiếp tục làm việc , ngoài ra dù tốt nghiệp Kỷ sư, Bác sĩ , Luật Sư đều không được công nhận, phải học lại . So sánh với hệ thống giáo dục tại Hoa kỳ, Úc các quốc gia khác, người tị nạn lớn tuổi có các nghề như trên may mắn hơn người tị nạn tại Đức (có chủ đề về hệ thống giáo dục tại Đức).

Cộng đồng người Việt định cư tương đối khá ổn định và hòa nhập vào cuộc sống, thường kinh doanh về nhà hàng, các quán ăn nhanh, thực phẩm Á châu. Thế hệ thứ hai trưởng thành theo học các đại học, các ngành nghề vững chắc như người bản xứ , trong gia đình cha mẹ nói tiếng Việt với con cái , Tiếng việt được tồn tại thật đáng hảnh diện.

Cựu sinh viên Việt Nam

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa gởi sinh viên du học, (vào khỏang 2000 sinh viên) nếu trính đến 30-4-75 phần nhiều chưa xong học trình, được ở lại tiếp tục học, một số sinh viên, nghe cộng sản Hà Nội tuyên truyền gia nhập “Hội Đoàn Kết “, được sứ quán (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) giúp đở có tờ Đất Nước tuyên tuyền cho chế độ cộng sản ,“ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản“ sau ngày 30.4.75 về thăm quê “ mừng ngày giải phóng“ . Trong lúc người miền Nam liều mạng sống chạy trốn khỏi thiên đường cộng sản. Họ về Sài Gòn bị giử lại học tập chính trị 3 ngày, trước khi cho về nhà, để đã thông tư tưởng “ Cách Mạng “ nêu lý do vì mới thống nhất còn khó khăn vv..” . Đối diện thực tế phủ phàng tại quê nhà, nói cái tên “Đoàn Kết “ chả ai muốn nghe !!, lý tưởng yêu nước bị lợi dụng .. trở lại Đức tìm mọi cách ở lại, xin tị nạn chính trị ? lấy vợ người Đức vv..

Thành phần nầy trước 75 thuộc tiểu tư sản , hưởng quyền lợi của chế độ miền Nam, được hoản dịch đi du học. Trong lúc thanh niên cùng thế hệ phải cống hiến tuổi thanh xuân và hạnh phúc, tham gia chiến đấu bảo vệ tự do miền Nam….

Những người theo “Hội đoàn kết“ sống riêng rẽ , ít tiếp xúc với người Việt tị nạn (Boat People) Họ thường về Việt Nam trong thời Việt cộng còn bế môn tỏa cảng, cơ hội tốt kiếm tiền buôn bán, móc nối mang đồ cổ ra bán nước ngoài… Làm thông dịch cho các phái đoàn của cộng sản…

Cộng sản đổi mới theo kiểu Liên Sô, cơ hội ngàn năm một thuở , họ bắt tay hoạt động muốn về nước đầu tư , cố vấn “ ăn trên ngồi trốc” Có thể không quen khí hậu nóng bức .. chạy thối lui nhờ còn quốc tịch Đức !!

 

Người Việt tị nạn từ Đông âu

Chủ tịch Gorbatschow (2.3.1931) thay đổi chính sách cai trị từ năm 1990 Glasmost (cởi mở) Perestrojka (tái phối trí) Liên Bang Nga Sô đổi mới. Ngày 02.05. 1989 Ungarn mở cửa biên giới thông thương với Tây phương. Hàng ngàn người Đông Đức hướng về Budapest Ungarn, vào tòa Đại sứ Tây Đức xin tị nạn… các nước Đông âu thay đổi chính sách cai trị, kéo theo sự sụp đổ thiên đường cộng sản.

Đông và Tây Đức thông thương từ ngày 09.11.98 hơn 11 triệu người từ Đông (DDR) sang Tây thăm viếng, chính phủ (CHLBD) cho mỗi đầu người 100 DM, Các siêu thị bán sạch hàng tồn kho, đi tay không nhưng về tay xách , vai mang triểu nặng hàng hóa. Sau ngày thống nhất thêm gánh nặng kinh tế, các hãng xưởng bên Đông lỗi thời , đưa đến bế tắc việc sản xuất, số người thất nghiệp gia tăng, người đi làm phải đóng tiền thuế “đoàn kết“ để xây dựng lại miền đất phía Đông .

Việt Nam gởi thanh niên nam nữ sang “lao động trả nợ “, dưới thời cộng sản Đông Đức (DDR) bị bóc lột tận xương tủy, họ không được học Đức ngữ đi làm tại các hãng xưởng đều có thông dịch viên hay các đội trưởng (cai) do đảng viên cộng sản người Việt chỉ huy, lương tháng bị khấu trừ nợ nần ..còn lại hơn 100 Mỹ Kim.

Người dân Đông Đức (DDR) sang Tây thăm viếng. Người Việt lợi dụng cơ hội lúc giao thời bỏ trốn sang Tây, được người Việt tị nạn (Boat People) giúp đỡ hướng dẫn các thủ tục xin tị nạn. Các nước Đông Âu đều có người Việt lao động hoặc du học sinh , tìm đường sang Đức tị nạn .

Đức thống nhất giúp các chàng tị nạn độc thân lập gia đình, riêng thầy Thích Như Điển được các thanh niên trong thời gian xin tị nạn giúp việc xây cất chùa Viên Giác tại Hannover Thời gian chờ đợi xin tị nạn chính trị? có người khai cha mẹ là Công an Giám đốc, Huyện ủy của chế độ Hà nội vv.. 60 ngàn công nhân lao động xuất khẩu còn hợp đồng làm việc bên Đông (DDR) đứng trước hai ngã đường về hay ở ? Chính phủ bồi thường, mỗi đầu người 3000DM để hồi hương, phần lớn không muốn về ở lại bán thuốc lá nhập lậu từ Đông Âu qua các đường dây buôn lậu, Tại các thành phố bên Đông như Berlin, Leipzig, Dresden bán thuốc lá kiếm khá nhiều tiền mỗi ngày vài ba trăm Mỹ Kim, nhiều người trở thành “chủ nhân ông“ tạo nên nhiều băng đảng, thanh toán giết nhau

Báo chí, truyền hình đều nói về việc trên, gây ấn tượng xấu cho người Việt Nam không ít, thời gian ngắn bị dẹp tan, các phần tử giết người bị truy lùng, tóm cổ, trục xuất hay chạy trốn sang các nước Đông Âu

Những người không được hưởng qui chế tị nạn, nhưng được chính phủ cho phép ở lại, dùng hộ chiếu Việt Nam, sinh sống theo luật ngoại kiều dành cho khách thợ. Người nào hội đủ điều kiện thời gian qui định sinh sống tại Đức không phạm luật có thể làm đơn nhập tịch. Người ở lại trưởng thành từ miền Bắc, từng sống dưới xã hội cộng sản bị bóc lột , trên xứ tự do họ siêng năng làm việc ngày đêm, buôn bán vv.. An cư lạc nghiệp hàng năm về thăm nhà, bảo lảnh thân nhân du lịch, trả tiền cho các đường dây buôn người, (mua vé từ Hà Nội sang các nước Đông Âu ) từ đó trốn sang Đức xin tị nạn, hoặc kết hôn để ở lại, số lớn bị trục xuất, nhưng không ngăn ngừa được trình trạng di dân bất hợp pháp từng xảy ra .

Số người hưởng quyền tị nạn theo điều 51, trong hộ chiếu Reiseausweis (Travel Document convention of 28 July 1951) có thể đi khắp thế giới, ngoại trừ đi Việt Nam, con cái sinh tại Đức mang Fremdenpass/ Aliens passport , hai năm gia hạn một lần.

Người Việt định cư tăng khoảng trên 100 ngàn người, nhiều báo chí ra đời , các cơ quan ngôn luận Việt ngữ hoàn toàn tự do, không bị ai kiểm duyệt đục bỏ, cái khó chỉ lương tâm người cầm bút, tự giới hạn những gì mình viết với tính cách xây dựng, nhằm phát huy và bảo toàn Văn Hóa Việt Nam. Không dùng ngoài bút để bêu xấu mạ lỵ, hay núp dưới bóng tự do tuyên truyền làm lợi cho cộng sản .

Các tờ báo của anh em đi “lao động“ hay “du học sinh“, quy tụ nhiều cây bút trẻ trung , viết về đời sống của xã hội CSVN họ từng trãi qua tại miền Bắc, góp tiếng nói với cộng đồng Việt Nam hải ngoại, không phân biệt Bắc Nam Trung và cùng đấu tranh đòi Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam .

Các loại nguyệt san một năm 6 hay 11 số bán hoặc tặng, được xuất bản phục vụ sinh hoạt cộng đồng : Dân Chúa Âu Châu, Viên Giác, Diễn Đàn Việt Nam Vietnam Forum, Bản tin Đức Quốc, Dân Văn, Sinh Hoạt Cộng Đồng, Cánh Én..Tia sáng .vv

Hàng năm vào các dịp tết cộng đồng người Việt , tổ chức tết mừng xuân hướng về quê hương, ngoài ra còn các lễ Phật Đản Vu Lan, các niệm Phật Đường, chùa Viên Giác thường tổ chức , dịp lễ Hiện xuống thường có Đại Hội Công Giáo tại Aschaffenburg. sinh hoạt hai Tôn Giáo lớn của người Việt tại Đức, có hàng ngàn người về tham dự .

Tín hữu Thiên Chúa giáo được các tòa Tổng giám Mục giúp đỡ , có trung tâm sinh hoạt khang trang, giáo dân không phải quyên góp tiền (vì tín đồ Thiên Chúa đi làm đóng thuế nhà Thờ trừ trong lương tháng) Thánh lễ lớn cử hành tại các nhà Thờ bản xứ . Ngược lại tín đồ Phật Giáo (không bị đóng thuế ), muốn có niệm Phật Đường phải thuê nhà, xây chùa lớn phải do Phật tử góp tiền, Với lòng sùng đạo của người Việt, góp tiền xây Chùa Viên Giác tại Hannover kinh phí tốn hơn 5 triệu Mỹ kim. Bàn thờ được thết vàng, chạm trổ mỹ thuật điêu khắc từ Việt Nam.. Dần dần các địa phương như Munich 20 năm qua Phật Tử góp tiền thuê mướn nhà làm niệm Phật Đường, bán từng cuốn chả giò, cành bông , quyên góp đủ tiền mua được Chùa nhỏ, đó là công đức và mồ hôi của toàn thể Phật Tử .

Người tị nạn Việt Nam luôn phát huy văn hóa, đấu tranh tự do dân chủ cho Việt Nam, tham gia các công tác lạc quyên giúp đỡ cho Đồng bào bên quê nhà bị thiên tai bảo lụt, Góp tiền bảo trợ cho các tu sĩ có khả năng theo học, tại các tu viện để sau nầy phục vụ cho Giáo Hội , Đạo Pháp .

Thuyền Nhân Việt Nam có cuộc sống tự do hôm nay, nhờ con tàu Cap Anamur cứu vớt, mong đừng lãng quên ơn người đã cứu giúp mình trên biển đông, trong những ngày lênh đênh vô định .!!

Dr. Rupert Neudeck là ân nhân của người Việt Nam, ông không phân biệt quốc gia, tôn giáo, chính trị, chủng tộc, nơi đâu có khổ đau, nghèo khó nơi ấy có sự hiện diện của ông . Năm 1981 thêm chương trình “Reis fuer VietNam) 1000 tấn gạo được hiệp hội bác sĩ không biên giới (Komitee Not- Aerzte) chở đến cứu trợ bảo lụt vùng Thanh Hóa, giúp trang bị các bệnh viện. Dr. Neudeck với lòng bác ái cao vời vợi , trong sáng như một vì Sao

Chúng ta có bổn phận nhắc nhở con cháu biết tại sao rời bỏ quê hương yêu quý , mặc dù Việt Nam thống nhất . Không nên nghe tuyên truyền sai lệch lịch sử của cộng sản Việt Nam , họ từng chưởi bới kết tội người Việt tị nạn là những người phản bội tổ quốc, ra đi vì kinh tế… rồi chính họ thay đổi gọi việt kiều là “ những khúc ruột ngàn dặm“.

 

1/ Die Flucht Der Spielgel số 13 trang 36 -60

2/ Das Volkschreibt Geschichte Tage, die wir nie vergessen(Berlin Illustrirte Sonderausgabe 1989

3/ Die letzte Fahrt der Cap Anmur 1 Rupert Neudeck (Herderbucherei)

4/ Rupert Neudeck Die Menschenretter von Cap Anamur (C.H.Beck Munchen)

Universal Lexikon (Faktum)

Zeitbild Die goldenen zwanziger Jahre(Ueberreuter)

Berlin mit Potsdam (Freude )

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button