Ngục Trung Thư

Phan Bội Châu

Ngục trung thư : đời cách mạng của Phan Bội Châu
Nguyên tác bằng Hán văn của Phan Bội Châu
Bản dịch của Ðào Trinh Nhất

Lời tựa

Năm 1913, Phan Sào Nam tiên sinh đang ở bên Tàu, bỗng bị Ðô đốc Quảng Ðông là Long Tế Quang vừa ham lợi, vừa sợ oai, bắt tiên sinh hạ ngục và toan giải giao cho chính phủ thuộc địa Ðông Dương. Nếu không có những bạn cách mạng Trung Hoa nhất là Hồ Hán Dân cứu khỏi, thì tiên sinh đã bị bắt về nước hơn 12 năm kia rồị Lúc ở trong ngục Quảng Châu, tiên sinh thái nhiên viết ra tập sách tuyệt mạng, tựa là Ngục Trung Thư, tự thuật về việc mình bôn tẩu quốc sự mấy mươi năm, lời lẽ rất là thành thật, bi tráng. Ðến văn chương hay thì khỏi phải nóị Anh em VN đồng chí ở Tàu năm 1914, từng đem xuất bản 1 lần. Năm 1938 lại mới in 1 lần nữạ Ai cũng phải nhìn nhận tập văn có giá trị, cả về lịch sử và văn chương. Chúng tôi dịch ra đây để cống hiến đồng bào xem cho biết tiên sinh hoạt động cách mạng ở hải ngoại gian nan nguy hiểm ra sao. Ðộc giả đọc sẽ thấy bậc người tài học và khảng khái như tiên sinh, 20 năm về trước bôn tẩu quốc sự, có thanh danh trọng vọng biết bao, thế mà vẫn cứ giữ đức tự trọng tự khiêm, đến đỗi tự cho mình là ngu, là dở, ấy chính là chỗ trì thủ cao thượng của nhà chí sĩ cựu học, và tiên sinh là người khiến cho chúng ta đáng kính, không lấy sự thành bại luận anh hùng, cũng chính vì chỗ trì thủ đó vậỵ
Chẳng bù với nhiều người tự xưng là chí sĩ mưu quốc bây giờ, mỗi việc gì cũng háo thắng háo danh, chưa ra gì đã tự cao tự đại, chúng tôi tưởng họ cần phải học đạo trì thủ còn lâu lắm. Sau khi bị bắt về nước, giam lỏng ở Huế gần 15 năm, cho tới ngày chết, tình cảnh rất tiêu điều, túng bấn, nhưng vẫn “lạc đạo an bần”, giữ tròn tiết tháo, từ chối nhất thiết danh lợi của đối phương cám dỗ. Chỉ vì muốn treo cao tấm gương sáng đó mà chúng tôi công bố bản dịch Ngục Trung Thư này ra, không có hậu vọng nào khác hơn.

Ðào Trinh Nhất
Tiểu sử Ðào Trinh Nhất: Ðào Trinh Nhất sinh năm 1899 tại Thái Bình. Ông là con của Ðào Nguyên Phổ và Lương Thị Hòa (cháu nội Lương Văn Can) và là cựu học sinh trường Quốc Tử Giám, Huế.
1921-1925 : Viết báo Hữu Thanh, Thực Nghiệp Dân Báo và France-Indochine ở Hà Nội .
14/11/1925 : Tới Saigon, làm thư ký tại Chez Phan Chu Trinh, số 5 Catinat (đường Tự Do).
22/3/1926 : qua Pháp.
15/4/1926 : Tới Paris liên lạc với Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Như Phong. Viết báo Việt Nam Hồn.
5/1927 : Trở về VN.
1930-1931 : Chủ bút báo Ðuốc Nhà Nam (Flambeau d’Annam) của Bùi Quang Chiêu.
2/1936 : Xuất bản tờ Mai, tấn công Ðại Hội Ðông Dương.
25/7/1939 : Bị trục xuất về Bắc.
1944-1945 : Cộng tác với báo Nước Nam của Lương Ngọc Hiền tại Hà Nộị..

Ngục Trung Thư
1. Vì sao Long Tế Quang bắt tôi hạ ngục ? :

Con chim sắp chết, tiếng kêu đau thương; người ta sắp chết, lời nói ngay thẳng. Những lời tôi nói ra đây có ngay thẳng hay chăng, tôi đâu có biết. Nhưng chỉ biết là lời nói của 1 người sắp chết thì có.
Mùa đông năm Quý Sửu (1913) tôi đang ở đậu Dương Thành (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Ðông), thì quan Toàn quyền Pháp (Albert Sarraut) ở Ðông Dương sang chơi Quảng Châu, đem vụ án đầu đảng cách mạng nước Nam ra, xin chính phủ Quảng Ðông bắt tôi giao về chính phủ Pháp xử.
Ðô đốc Quảng Ðông lúc bấy giờ là Long Tế Quang chịu theo lời xin ấy, trước ngày cuối năm 8 bữa, bắt tôi giam cầm trong ngục, và báo cho tôi biết rằng sớm muộn sẽ giải tôi giao trả cho người Pháp.
Tôi biết sớm chiều gì đây, đầu tôi cũng lìa khỏi cổ, nhưng tôi vẫn lấy làm vui vẻ. Than ôi ! Bao nhiêu năm bôn tẩu, mưu tính trăm việc mà không nên 1 việc gì, nghĩ mình tội nặng lỗi nhiều, có vui gì sống nữa mà ham.
Song trước khi chết, không lẽ không thốt ra 1 vài tiếng kêu đau thương sau chót. Ai biết lòng ta chăng ? Ai bảo ta có tội chăng ? Còn 1 giây phút trước khi ta phải chôn mình dưới đất, ta cũng muốn cạn lời ta nóị Chiếc bóng bơ vơ
trời biển, ngọn đèn leo lét gió mưa, ta thấm giọt lệ còn lưu lại mấy chục năm nay, gom góp lịch sử 1 đời ta, hòa với máu mà viết ra tập sách nàỵ Hỡi ba ngàn muôn đồng bào chí ái chí thân, dầu ai biết lòng ta chăng ? Dầu ai buộc tội ta chăng ? Khi đọc tập sách này, sẽ thấy giọt máu hầu khô, vẫn còn đầm đìa ở trên mặt tờ giấy vậỵ

2. Ra đời giữa lúc mất Nam Kỳ đã 6 năm ! :

Triều vua Tự Ðức thứ 15, Nhâm Tuất (Tây lịch 1862), binh Pháp chiếm lĩnh đất Nam Kỳ của ta. Nam Kỳ là kho tàng thiên nhiên của nước ta; cửa biển vào Saigon thật là cuống họng ta, nay đã vào tay người Pháp rồi, ta chưa mất hết cả nước, chỉ là chuyện thời gian sớm muộn đó thôi. Chén vàng đã ụp, nhà lớn sắp tiêu, thương thay cho ta, lại nhè giữa lúc ấy mà sinh ra đờị Thiệt ta sinh ra đời giữa năm Ðinh Mãọ niên hiệu Tự Ðức thứ 20, nghĩa là lúc Nam Kỳ đã mất 6 năm rồị Ðầu xanh nào đã biết gì, con thơ chưa lìa bọc mẹ, thế mà tấn kịch biển khóc non gào, sửa soạn đem mi mà liệng vào giữa tấm màn thảm đạm ấỵ Lồng lộng trời xanh, kẻ ấy là ai đó tá ?
Lúc đầu thế kỷ 18, ngọn sóng mới của Âu học vọt lên cao muôn trượng; những tiếng dội phú cường, hầu như vang động tràn lan cả hoàn cầụ Phải chi ta sớm được đầu thai ở giữa khoảng đó, có lẽ ta không đến đỗi mù mù mịt mịt như ta ngày hôm nay. Nhưng tiếc thay, ta chẳng may sinh ra ở nước Nam ta.
Nước ta từ xưa phụ thuộc vào nước Tàu, địa lý, lịch sử, gốc tích, trải mấy ngàn năm nay, như 2 nước anh em đã lâu đời lắm vậỵ Bởi đó, nước ta chỉ biết tôn sùng Hán học như thần thánh, mà Hán học xem trọng, chỉ có khoa cử văn từ.
Tôi từ nhỏ tới lớn, vốn có tư chất thông minh, công phu đèn sách dùi mài cũng không bê trễ, nhưng kể đến sự kết quả, chẳng qua chỉ là sự học khoa cử mà thôị Vì lúc bấy giờ, lối học khoa cử của nhà Thanh, đang sôi nổi như gió cuốn mây bay, người nước mình bắt bóng theo chân, chỉ sợ không giống như người Tàu. Bà con ta muốn cưỡi mây lướt gió, không thể nào không mượn con đường khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời đi nữa, cũng không có đường học nào mà đi. Than ôi ! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của quý, sự ưa thích lâu đời đã thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói buộc, đến đỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa đời ngườị Ðó là 1 vết nhơ rất lớn trong đời tôi.

3. Cùng anh em đồng chí ra đội Sĩ tử Cần Vương :

Năm tôi 17 tuổi, tức là năm Tự Ðức 36, Quý Mùi, quân Pháp chiếm lấy Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ. Ðến năm tôi 19 tuổi, nhằm năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguyên niên, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi phải chạy : cung điện bày ra cảnh hoang lương, nhởn nhơ bầy nai, đầy dăng ổ quạ, tấn kịch vong quốc mở ra từ tháng 7 Hàm Nghi năm đầu trở đi vậỵ Ôi ! Trời nghiêng đất ngã, lúc này kẻ làm trai đội trời đạp đất, ai nỡ dòm non sông bằng con mắt gỗ đá, trơ trơ cho đành !
Tôi được trời phù hộ cho, máu nóng không vừa, ngay từ hồi còn là thằng trẻ con đọc sách của cha để lại, mỗi khi đọc tới chuyện người xưa hăng hái thành nhân tựu nghĩa (hy sinh vì chính nghĩa), tôi thường nhỏ nước mắt ròng ròng, thấm ướt cả sách. Những chuyện Trương công Văn Ðịnh chết theo Nam Kỳ và Nguyễn công Tri Phương tuẫn thành Hà Nội, tôi hay đàm đạo nhắc nhở tới luôn, mà mỗi lần nhắc tới, khiến tôi vung tay vỗ ngực, tự thẹn cho mình thua sút 2 ông đó. Vì tính chất trời sinh cho tôi như thế, không thể nào làm bộ khác hơn được.
Sau lúc kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi ngự giá ra đóng tại sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh, các bậc quan nhân đang ở nhà, như Nguyễn Xuân Ôn, Ðinh Văn Chất, đua nhau dựng cờ cần vương, phong trào lan tràn khắp các phủ huyện đều có. Ngó lại tôi còn là 1 tên học trò nhỏ tuổi, nào có thế lực gì dám cùng các cụ cùng nổi lên làm việc lớn. Mình như con chim con, lông cánh chưa đủ, nanh vuốt còn non, tự nghĩ mà buồn. Lại nhớ đến chuyện anh hùng của Ðổng Thiên Vương ngày xưa 3 tuổi cỡi ngựa đánh giặc, tôi nghĩ tôi thật là 1 thằng trai hèn quá.
Suy đi tính lại, không biết làm cách gì, chỉ còn có cách kêu gào bọn đồng học, tổ chức ra 1 đội quân học trò giúp vua, gọi là “Sĩ tư cần vương đội”. Tôi với bạn thiết Trần Văn Lương là người phát khởi, cùng tôn ông cử nhân Ðinh Xuân Sung lên làm đội trưởng, tôi thì làm đội phó. Ðội này chỉ có lối vài trăm ngườị Công việc sắp đặt hơi yên, duy có binh lương khí giới chưa có cách tìm đâu cho rạ Vừa gặp lúc người Pháp đem đại binh tới hạ thành Nghệ An, rồi thừa thắng tiến binh đánh giẹp các phủ huyện. Ðội quân của chúng tôi tổ chức, cả lương hướng súng đạn đều không có, thành ra chỉ trong giây lát, như bày muông chim vỡ lở tứ tán. Tôi phải trà trộn trong đám nạn dân mà chạy thoát thân. Tới nay nhớ lại việc tôi đã làm đó, không khác gì trẻ con làm nhà bằng giấy để chơi, không bỏ cho bậc người kiến thức chê cườị Tuy vậy, tôi cũng cứ chép ngay ra đây, vì tấm lòng mưu toan cứu quốc, thật là phôi thai từ việc ấy mà ra. Nghĩ mình bày trò tuy giả, nhưng mà lòng vốn thẳng ngay, cho nên tôi không dám dấu diếm chỗ dở của tôị Lúc bấy giờ, cửa nhà tôi bị tiêu hủy vì họa binh đao, thân phụ tôi giữa cơn hoạn nạn, lại mang bịnh nặng. Tôi không còn mẹ, cũng không có anh em nào, thành ra không dám bỏ cha mình mà ngó tới việc gì khác. Tôi đành nương náu ở nhà dạy học trò, để chuyên lo săn sóc bịnh cha, cả thảy 9 năm. 4. Muốn hãm tỉnh thành Nghệ An :

Những trong 9 năm ấy tôi vẫn lo nghĩ trau dồi lông cánh để một mai bay nhảy vẫy vùng, chứ không hề xao lãng. Tôi thường cùng anh em đồng chí là bọn ông Vương Thúc Quý (người cha khởi nghĩa, đem hương binh chống với Bảo Hộ, sau bị tử nạn) và Hà Văn Mỹ (là 1 viên kiện tướng bộ hạ của cụ Phan Ðình Phùng, sau bị quân Bảo Hộ bắt được tự tử mà chết), chúng tôi âm mưu vớ nhau, mỗi năm tới ngày lễ kỷ niệm cộng hòa (14/7), anh em mật hội đồ đảng ở tỉnh thành Ngệ An, toan bề hãm thành. Song quân lính Bảo Hộ đông đảo, việc phòng bị kiên cố lắm, chúng tôi không thể thành sự. Có điều là nhân mấy dịp đó mà anh em giang hồ hiệp khách được làm quen kết bạn với nhau, cũng tức là đầu giây mối nhợ cho cuộc hoạt động của tôi sau này vậỵ
Ðến năm tôi ngoài 30 tuổi, đảng Cần Vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan tành, chỉ còn sót lại 1 mình cụ Phan Ðình Phùng ở La Sơn, cố sức cầm cự được lâu. Nhưng tới năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6, cụ mất. Từ đó trở đi non sông hiu quạnh, việc gánh vác không còn ai. Trải 10 năm, tôi ôm lòng phẫn, nuôi chí to, vẫn rắp ranh ở giữa khoảng núi Hồng sông Lam, dựng lên 1 cây cờ độc lập. Tới đây tôi không thể nào nín mà không làm được.
Tôi sinh trưởng trong làng xóm dã man, thuở giờ chỉ quen lặn lội trong rừng từ chương khoa cử, nói đến tài học như người Âu châu, thật không có mảy may nàọ Song tôi có bẩm chất cang cường, biết nghĩa liêm sỉ, không chịu theo đuôi làm tớ người ta. Vừa gặp trong nước hồi nay cựu đảng đã im hơi bặt dấu, tân đảng thì chưa nẩy nhánh đâm chồi; tôi kết giao họp đảng bao nhiêu lâu, thành ra ở trong xã hội hơi có tiếng tăm hơn trước, thiết nghĩ lúc này chính mình không tự ra tay làm việc, liệu còn chờ ai. Kết quả tôi được như ngày nay, thiệt bởi 1 tấc lòng suy nghĩ đó là nguyên nhân vậỵ
Tuy thế, tôi dại dột thì thôi. Nghĩ xem thế lực người Pháp lớn lao thế kia, tài sức tôi nhỏ nhoi thế này, tôi ỷ vào quốc dân, mà quốc dân ở vào trình độ còn thấp thỏi ra sao, tôi dựa vào thời thế nhằm lúc khó khăn ra sao, không nói cũng rõ. Vậy mà tôi chẳng dòm trước ngó sau, chỉ cậy mình có bầu máu nóng trơ trơ, toan ra tay làm việc vá trời lấp biển, chẳng phải là tôi điên khùng lắm sao ? Dù sao mặc lòng, tôi cứ việc hăng hái đi tới, không dòm ngó trước sau gì hết. Trong trời đất có ai ngu dại hơn tôi nữa không ?

5. Tôn ông Cường Ðể làm minh chủ :

Số là ban đầu tôi định chiêu nạp bọn anh hùng lục lâm và những người trong đảng cần vương còn sót lại để dựng cờ khởi nghĩa ở khoảng Nghệ Tĩnh. Bởi vậy có 1 lúc nhiều khách rượu làng chơi, cùng tôi giao du lui tới thân mật lắm.
Bộ hạ cũ của Phan tướng công (Phan Ðình Phùng) là Quỳnh Quảng và môn hạ của Bạch Xỉ (1 người đồng thời với cụ Phan Ðình Phùng, lấy hiệu Bạch Xỉ, tự xưng hoàng đế, tụ tập ở trên núi Ðại Hàm) là bọn Kiễm và Cọng hay ra vào nhà tôi luôn.
Nhà tôi là nhà làm nghề dạy học, nhưng mà học trò chỉ ở nhà ngoài, còn nhà trong thì chứa đầy khách hào kiệt sơn lâm. Các ông đồ nho trong xóm gặp lúc đi ngang chợt ngó thấy tình trạng như thế, đều lắc đầu lè lưỡi, đến đỗi lần sau các ông không dám day mặt ngó vào nhà tôi nữạ Việc chúng tôi mưu tính lần hồi chính chắn, gần tới ngày hẹn nhau phải lên rồi.
Song ông bạn thân là Ðặng Thái Thân nói với tôi :
“Xem kỹ lại thời thế chưa có chỗ nào mình đáng thừa cơ làm việc lớn. Bọn ta vội vã làm càn, chắc là không xong việc gì được đâụ Nhưng ta cũng phải làm sao để chỉ tỏ cho người Pháp biết rằng quốc dân ta chẳng phải toàn là những hạng người quá hèn, vậy thì ta cứ mạo hiểm làm 1 phen cũng được, có điều là mong ước sao cho chúng ta cất tiếng lên trước rồi phải có người nối lời sau mới được.
“Nhưng nếu ta chỉ khởi sự trong khoảng Nghệ Tĩnh mà thôi, tôi e như chuyện cái thai đứa nhỏ khó đẻ, ở trong bụng mẹ lọt ra chưa kịp khóc oa oa mấy tiếng thì đã chết non mất rồị Tôi trộm suy nghĩ mà lo ngại dùm cho tiên sinh chỗ đó.
“Theo ý tôi, trước hết ta nên vô Nam ra Bắc, cầu anh em hào kiệt ở 2 nơi cùng làm việc với tạ Ðất Bắc Kỳ vốn nhiều nghĩa sĩ, từ Quảng Nam trở vô Nam Trung cũng không thiếu gì hạng người khảng khái bi cạ Ta lấy nghĩa đề huề (nâng đỡ) với họ rồi tất cả anh em 3 nơi đồng thời khởi nghĩa, để chia bớt sức mạnh của bên địch, mà vây cánh đồ đảng chúng ta đông, như vậy họa chăng mới làm nên công việc”.
Ðặng quân vốn người hăng hái, gan dạ, nhân phẩm lại cao, trải 10 năm vừa là thầy vừa là bạn tôị Ngay ra lời ông ta nói rất nhằm, tôi mới tỉnh ngộ, liền bàn định trước hết hãy vô Nam Trung, rồi sau sẽ ra ngoài Bắc, liên kết với các phe đảng anh em toàn quốc, để sắp đặt khởi nghĩa saụ Lúc bấy giờ bạn đồng niên với tôi, ông Ðặng văn Bá cũng tán thành chí tôi đã định, bèn cùng tôi đi vô trong Nam.
Tôi vô Nam chuyến này, nghe nói trong đảng cần vương 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, có viên kiện tướng là Nguyễn Thành, sau khi bị bắt nhờ có Nguyễn Thân cứu dùm, may mà được tha, giờ ông đang ở trong núi làm ăn. Song chí khí hồi xưa vẫn còn nồng nàn, chưa phải là tro tàn lửa nguội, chẳng qua như chim cắt đang đợi có gió thu đó thôi. Muà xuân, tháng 2 năm Quý Mão, tôi với 2 họ Ðặng cùng vô Quảng Nam. Lúc đi ngang Huế, gặp ông Lê Võ từ Bình Ðịnh trở về tới đó.
Lê quân vốn con nhà làm tướng. 4 người anh đều chết vì nạn nước. Ông nhỏ tuổi nhất trong nhà, thành ra may mắn chưa chết. Khi gặp tôi ở kinh thành, Lê quân tỏ bày chí khí như phơi gan trải mật. Chúng tôi hôm sớm quấn quýt với nhau, trở nên thân thiết. Rồi cùng chúng tôi đi vô Quảng Nam, tìm đến ra mắt cụ Nguyễn Thành.
Ông cụ này, hồi khởi nghĩa binh mới có 18 tuổi, đã xông pha hùng hổ, nhiều lần đánh bên đih phải thua; họ khen cụ biết cách cầm quân. Cụ chính là người trội nhất của nghĩa đảng vậỵ
Chúng tôi đến, cụ mới làm quen mà đã coi như bạn thân lâu ngàỵ Anh em cùng ngồi quây quần uống rượu nói chuyện. Cụ Nguyễn Thành bàn bạc công việc thiên hạ 1 cách hùng hồn và rất rành mạch đúng lẽ.
Tôi đem chí muốn ra phân trần. Cụ vỗ tay, nói :
“Hay dữ ! Thuở nay, ai muốn mưu toan đại sự, trước hết phải cần 3 điều này : một là thu phục lòng người, hai là góp số tiền lớn, ba là sắp đặt mua sắm quân khí cho đủ. Hễ lòng người đã chịu tin phục thì số tiền lớn có thể góp được. Có tiền thì vấn đề quân giới, không khó giải quyết đâu.
“Nhưng phải hiểu dân trí và tập quán của dân nước nhà, không thể nào bắt chước làm theo châu Âu đươc. Bọn ta muốn có cách kêu gọi nhân tâm cho dễ, nếu muốn mượn tiếng phò vua giúp chúa thì những nhà sang họ lớn kia, ai chịu phụ họa theo mình. Vậy thì ta dầu có bụng cứu nước mặc lòng, chẳng qua chỉ chết thân mình cho tròn được 1 tiếng vậy thôi, ngoài ra không ăn thua lợi ích gì cho việc lớn.
“Vua Hàm Nghi trốn tránh ở chốn nào, đã lâu không nghe tin tức ra saọ Còn vua Thành Thái hiện tại thì ở trong tay người Pháp kiềm chế, anh em ta không làm cách gì ra vào thân cận bên mình ngài đặng. Sẵn có dòng dõi của đức Ðông cung Cảnh là đích tự Cao hoàng, hiện nay đang còn. Chúng ta khởi nghĩa, nên trước hết tôn ngài lên làm cung chủ; có thế thì danh nghĩa mới thuận, hiệu lệnh được nguyên, mỗi khi ta cất tiếng kêu gào, thuận theo chiều gió, tất nhiên có tiếng vang bóng sâu xa lắm vậỵ Các ông tính sao ?”.
Tôi và 2 ông Ðặng, Lê, ban đầu thật chúng tôi chưa hề suy tính tới việc tôn người dòng dõi nhà vua. Tới đây nghe Nguyễn quân, chúng tôi cho là phải lẽ lắm.
Than ôi ! Trí dân chưa mở, thói cũ chưa chừa, chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa quốc gia, ở giữa mới bắt đầu tiếp xúc như vậy, mình muốn nó đánh đổ bao nhiêu thói quen cổ thời mà quét đi cho sạch, nào có phải là chuyệ dễ dàng. Tuy vậy, nghe mấy lời Nguyễn quân vừa mới bày tỏ, tôi không chịu khuất phục cũng chẳng được nào !

6. Ra thăm Hoàng Hoa Thám rồi vô Nam Kỳ :
Tháng 3 năm Quý Mão (1903), tôi tìm tới yết kiến Kỳ ngoại hầu Cường Ðể ở Huế, tỏ bày việc lớn.
Kỳ ngoại hầu hớn hở nói : Lâu nay tôi vẫn nuôi cái chí lớn đó. Ngặt vì từ lúc Hồ Quý Châu và Nguyễn Thu Nam là 2 bạn đồng chí của tôi qua đời đi rồi, tôi để ý tìm kiếm mãi nhưng chưa gặp được ai có thể nói câu chuyện ấy với mình. Nay các ông không từ xông pha muôn dặm, vì chỗ tinh khí với nhau mà tìm đến tôi, tôi xin vui lòng hy sinh tất cả mọi sự, để cùng các ông nằm gai nếm mật, nếu có thể báo đáp quốc ân trong muôn một, dầu tôi có thể tan thây mất xác cũng vuị
Rồi Kỳ ngoại hầu cùng tôi và 2 ông Lê, Ðặng đi vô Quảng Nam hội họp các đồng chí ở nhà ông Nguyễn Thành trên núi. Chúng tôi bí mật bàn tính các việc, cùng tôn Kỳ ngoại hầu lên là hội chủ, và giao công việc của đảng từ 2 tỉnh Nam Nghĩa trơ về Nam cho Nguyễn Thành gánh vác, còn 2 tỉnh Bình Trị trở ra Bắc thì tôi đảm nhiệm.
Liền tháng 6 năm đó, tôi trở về Nghệ, rồi thẳng đường ra Bắc Kỳ dạo chơi hơn 10 tỉnh, lên sắp đặt việc đảng và tìm bạn đồng chí.
Rồi tôi lặn lội lên miệt Yên Thế, tới đồn Phồn Xương để yết kiến Hoàng tướng quân Hoa Thám.
Hoàng tướng quân vốn là tay cứng trong đảng cần vương Bắc Kỳ. Từ lúc ông Nguyễn Bích tử trận, ông Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tàu thì đảng cần vương Bắc Kỳ tan rã. Duy có Hoàng tướng quân 1 mình chiếm giữ miền núi tỉnh Bắc Giang, chống cự với Bảo Hộ đã ngoài 10 năm.
Người Pháp chia cắt miệt rừng cho tướng quân cai quản để cùng tướng quân giảng hòa. Người trong nước ta từ đàn bà con trẻ, chẳng ai mà không nghe tiếng tăm Hoàng Hoa Thám lừng lẫỵ
Từ hồi nào đến giờ, tôi mới được bước chân vô trong đồn trại này là lần thứ nhất.
Tôi nhớ hôm đó là mùng 8 tháng 8 năm Quý Mãọ Cùng đi với tôi 1 chuyến là 2 ông Nguyễn Cừ và Cao điền Nguyễn Ðiển. Hai ông này ở chờ ngoài đồn, chỉ có mình tôi vô trong.
Rủi nhằm lúc Hoàng tướng quân đang mắc bịnh nặng, không thể cùng tôi hội đàm được. Nhưng tướng quân sai người con trưởng là Cả Trọng và 2 viên ái tướng là Cả Dinh và Cả Huỳnh tiếp đải tôi vui vẻ tử tế.
Tôi ăn ở trong đồn 11 ngày, rồi thổ lộ hết tâm sự mình rồi mới ra đi.
Ðảng (Duy Tân Hội hay Duy Tân Cách Mạng Ðảng) ở Bắc Kỳ từ đó mới tổ chức lạị
Tháng 10, tôi trở vô Kinh, báo cáo việc đảng cho hội chủ haỵ Hội chủ nói với tôi :
Nam trung vốn là khu đất của tiên triều gây dựng mở mang, xưa đức Cao hoàng nhờ đó mà khôi phục rỡ ràng nghiệp cũ. Lòng người nhớ cũ rất nhiềụ Tiên sinh nên vào 1 chuyến, chắc có ảnh hưởng không phải nhỏ đâụ
Thế rồi trung tuần tháng 12 năm Quý Mão, tôi lên đường vô Nam.
Cuối tháng chạp, tàu đến Saigon.
Qua tháng giêng năm Giáp Thìn, tôi đi Châu Ðốc, Hà Tiên, tìm thăm các hào kiệt ở Thất Sơn. Lại đi dạo khắp các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Ðéc. Nhân dịp thăm viếng cả những chỗ dấu xưa vết cũ của 2 cụ Nguyễn Huân, Trương Công Ðịnh, trong ý mong mỏi may ra mình có gặp gỡ được sự gì hay chăng ?
Nhưng tôi đi chuyến này, gặp được sự hay rất ít. Thật tôi không ngờ…

7. Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư :
Tháng 3 năm Giáp Thìn (1904), ở Nam Kỳ trở về, tôi lại ngụ ở Huế. Thỉnh thoảng lo tính 1 chuyện như cách vẽ rắn thêm chân. Ðó cũng là 1 việc quan hệ về lịch sử tôi nên nóị Nguyên lúc vua Ðồng Khánh được lên ngôi rồi, 2 nước Pháp
Việt sửa thêm vào tờ điều ước cũ. Bây giờ cắt đất từ Thanh Hóa trở vào, Bình Thuận trở ra gọi là Annam, thuộc về Pháp quốc bảo hộ. Then chốt của chính phủ Bảo Hộ ở trong tay ông Trú Kinh Khâm sứ nắm giữ. Những thực
quyền về việc binh việc tài, đều về tay người Pháp chủ trì, còn quan lại thì người nước mình. Người Pháp chỉ xem
xét sai khiến mà thôị Tôi suy nghĩ nếu như công việc mình tính làm đây mà được bọn người trong quan trường giúp ngầm, tất là dễ dàng nên việc. Song tôi suy đi tính lại bọn làm quan là hạng trí não tầm thường, e mình khó lòng mưu toan với họ, mà rủi mưu toan với họ không xong, thì có tai họa xảy đến cho mình ngaỵ Tuy vậy mặc lòng, chúng ta là người đã quyết hiến thân cứu quốc thì đầu cổ mình, tính mạng mình, đều có thể hy sinh không sá kể gì, vậy thì con đường họa phước lợi hại, ta cứ dấn mình vào mà di, há nên chần chờ trốn tránh nữa sao ?
Tôi bèn quyết kế tìm cách vận động các quan.
Lúc ấy, tôi có tiếng hay chữ vang dậy chốn kinh đô, phần nhiêu cụ lớn trong triều muốn được tôi ra vào làm môn hạ các cụ.
Tôi liền viết ra 1 cuốn sách, nhan đề là “Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư” ( “Ryukyús Bitter Tears “; “Letters Written in Tears and Bloods”). Trong đó tôi tả rõ những cái thảm trạng thành tan nước mất, những nỗi nhơ nhuốc đổi chúa làm tôị
Lại nói đến dân trí phải gấp mở mang, dân khí (sức mạnh của nhân dân) nên gấp bồi dưỡng để làm nền tảng cho việc cứu quốc, v.v… Cuốn sách này gồm có mấy muôn lời nói.
Tôi ôm sách tới ra mắt các cụ lớn, như cụ Ðông các Nguyễn Thảng, Công bộ Ðào Tiến, Lễ bộ Hồ Lễ, Lại bộ Nguyễn Thuật, v.v…
Các cụ đêu khen lời nói cứng, văn tiết hay, và ngầm cho ý kiến tôi bày tỏ là đúng, nhưng thủy chung các cụ chẳng dám nói rõ ý mình ra sao.
Lanh quanh hết mấy tháng trường như thế, rồi sau tôi biết rõ bọn cụ lớn kia không cậy nhờ gì được mà trông. Ruột gan của họ, chỉ biết có sự phú quý của thân họ, nhà họ. Trước việc thì họ chỉ ngồi ngó thành bại, sau việc thì họ lựa sóng theo chiềuu. Nay ta mạo hiểm giải bày tâm sự với họ nhưng thật không chỗ nào trông cậy họ được. Tôi luống thẹn mình kém phần trí sáng, chẳng có tài làm cho tượng đá biết gật đầu, rồi càng nghĩ càng ăn năn trước kia mình tơ tưởng lợi dụng quan trường thật là bá láp.
Nhưng việc này không phải là không có kết quả.
Sau khi “Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư” ra đời rồi, các chí sĩ lẩn quất trong kinh đô, đều rõ biết ruột gan tôi ra thế
nàọ Ví dụ như ông Phan Châu Trinh và ông Trần Quý Cáp- về sau bị tù, chết chém-lúc này làm quen thân mật với tôi, ấy chính là nhờ cuốn “Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư” giới thiệu vậy.

8. Làm sao mua được khí giới ? :
Lúc bấy giờ, những nghĩa dân hiệp sĩ khắp trong nước đã liên lạc nhất khí với nhau rồị
Từ Bắc vô Huế, khắp các tỉnh thành châu quận trọng yếu, chúng tôi đều ngấm ngầm sắp đặt vây cánh phe đảng đâu đó hẳn hoi, chỉ còn chờ đợi thời cơ là khởi sự.
Vấn đề kiếm tìm những khoảng tiền lớn để làm việc, cũng có anh em gánh vác trách nhiệm quyên góp.
Phải chi mình ở vào những đời Ðinh Lý Lê Trịnh thuở xưa, thì chỉ vung cánh tay mà kêu lên 1 tiếng, tức thời sóng dậy sấm vang chỉ là việc thành trong khoảng giây lát mà thôi.
Nhưng đời nay thì khác hẳn.
Từ lúc đời có súg đạn phát minh ra, bao nhiêu khí giới gọi là gươm giáo đao thương đã hóa ra đồ bỏ. Cái thứ để chặt cây làm mác kia, đời xưa người ta vác đi đánh Tần đuổi Sở được, chứ đời nay có dùng nó làm nên trò vè gì !
Phải biết võ khí của người Pháp tinh nhuệ hơn của người mình muôn ngàn lần. Còn khẩu súng nào ở trong tay người mình, thì ngày đêm có tướng tá Pháp gìn giữ coi chừng hoàị Trong hàng quân ngũ, từ chức cai đội trở lên cũng không có người mình được làm. Nếu muốn dỗ họ trở súng cộng sự với mình, lúc bình thường không phải là chuyện dễ; trừ khi nào có phát sinh đại chiến, họa chăng sự mưu tính mới được thực hiện.
Các ông sách sĩ (người chuyên nghĩ mưu tính kế) trong đảng chúng tôi lúc ấy, gặp phải 1 vấn đề to lớn khó khăn mà không sao giải quyết được, ấy chính là quân giới.
Trong nước ta có sở chế tạo quân giới nào, đều có binh lính Pháp chiếm giữ, canh gác cẩn mật, nếu bà con mình đi qua hơi liếc mắt nhìn mấy nơi đó cũng bị tội nặng lập tức. Như vậy thì chúng tôi có nhúng tay vô chỗ nào mà lấy khí giới được đâu !
Muốn mua khí giới ở ngoại quốc chở vào cho mình lại cũng không được. Là vì bao nhiêu cửa biển trong nước, cửa nào cũng có nhà chuyên trách của Bảo Hộ cắt đặt, khám xét dò la hết sức nghiêm ngặt. Dầu cho mình mua ở ngoài được, nhưng với 1 số quân giới rất nhiều, mình có phép tiên, chước quỷ gì mà vận tải nó lọt vô xứ này cho nổi ?
Anh em chúng tôi lo quanh tính quẩn, mất nhiều ngày giờ mà chỉ có vấn đề quân giới, mỗi khi nghĩ đến, ai nấy bức rức lo âu, cám cảnh mình thiếu mất 1 món thứ nhất cần dùng, rồi nhớ lại chuyện Châu lang đời xưa nếu không có ngọn gió đông thì lấy gì mà đánh trận Xích Bích.

*

Cách không bao lâu, bỗng dưng có những tiếng súng nổ ở Lữ Thuận, Liêu Ðông, lướt theo sóng gió vang dội tới đây làm rung động chói chát lỗ tai anh em chúng tôi. Trận Nga – Nhật chiến tranh (1904) mà Nhật đại thắng thật có chỗ hay cho chúng tôi rất lớn. Trong óc chúng tôi đến đây có 1 thế giới mới lạ mở rạ Nước Nam ta trước khi chưa có Pháp quốc bảo hộ, chỉ biết thế gian này có nước Tàu mà thôị Tới lúc có Pháp quốc bảo hộ ta rồi thì ta lại chỉ biết có Pháp quốc. Thế giới đổi dời, phong trào mới lạ, thật bà con ta chưa hề mộng tưởng tới đó. Chúng tôi bôn tẩu quốc sự bao lâu, nghĩ có mất xác rụng đầu cũng chẳng sợ, nhưng bất quá là bị cái thiên lương vì nước lo toan nó bắt buộc mình phải vậy đó thôi, chứ đến quy mô xây dựng độc lập ra sao, thì lúc ấy chúng tôi vẫn còn mơ màng như người đi giữa đám sương sa mịt mù vậỵ
Từ hồi bỏ nước đi ra ngoài, đầu óc mắt tai mình mới là bắt đầu biến đổị Nhưng không thể nào không bảo được rằng đó là nhờ trận Nhật – Nga đánh nhau đã làm vang bóng cho tâm não chúng tôị Than ôi ! Ðến giữa thế kỷ 19, gió Mỹ mưa Âu đã làm ồn ào vũ trụ, vậy mà ngó lại nước mình vẫn còn đang ở trong cơn mơ mộng ngủ saỵ Lúc bấy giờ dân ta còn mù mit chuyện đời đã đành, không trách gì được, Nhưng ngay đến hạng người trồi đầu khét tiếng như tôi mà cũng như ếch nằm đáy giếng, khiến ở trong hang, có hiểu biết chuyện đời là gì đâụ Nghĩ trong thế giới có thứ người đáng buồn cười mà cũng đáng thương xót, không còn ai hơn bà con nước mình.
Là bởi nước mình thuở trước chỉ đóng cửa ngồi nhà, trăm điều kiến văn gì, quanh quẩn trong vòng chữ nghĩa thi cử Hán học mà thôi; vậy cứ bảo ngay quốc dân mình là bọn tai điếc mắt đui, cũng không phải là nói quá đáng chút nàọ Kịp đến khi có người Pháp sang xâm lược, dân ta cũng vẫn còn mắt đui tai điếc. Nếu không có tiếng súng nổ đùng đùng ở Lữ Thuận (Liêu Ðông) đánh thức, thì có lẽ ta cũng chưa biếy ngoài nước Pháp ra còn thế giới nào khác nữa.
Sau lúc Nhật – Nga khai chiến, khoảng giữa 2 năm Giáp Thìn (1904) Ất Tỵ (1905), cuộc cạnh tranh phấn đấu giữa người Âu người Á, da trắng da vàng, làm cho chúng tôi phải giật mình tỉnh ngủ. Chí hướng chúng tôi càng thêm nồng nàn hăng háị Song chỉ khổ một nỗi là bị vấn đề quân giới ngăn trở khó khăn, cho nên tới đây chúng tôi phải gắp tìm cách nào giải quyết cho xong.

*

Hạ tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (1904), các tay lãnh tụ trong đảng mở cuộc đại hội ở tỉnh Quảng Nam, lấy sơn trang Nam Thạnh làm nơi khai hộị Nhận thấy chỗ này gần kinh đô Huế, tất ông Hội chủ chúng tôi có thể lén tới nhóm hội được.
Lúc đó ông Tăng Bạt Hổ mới ở Hải Phòng vô, trong đảng thêm ra 1 tay kiện tướng, ai nấy vui vẻ hăng hái lạ thường.
Các lãnh tụ đều nói vấn đề quân giới nếu không có nước ngoài giúp mình thì không xong. Lấy chỗ quan hệ về lịch sử, địa dư, nòi giống mà nói, có thể giúp ta được không ai khác hơn là Trung Quốc. Nhưng từ trận thua ở Lạng Sơn hồi năm Giáp Thân trở đi, Trung Quốc ký điều ước Bắc Kinh, đã phải đem cái chủ quyền phiên thuộc nước Nam mà nhường đứt cho Pháp rồị Ðến việc Hàm Nghi xuất bôn, trong khoảng mấy năm Dậu, Tuất, thiếu gì các cụ nhà ta chạy sang Trung Quốc cầu viện, nhưng đều bặt mất tin tức. Gương trước mới đó không xa, nước Tàu chẳng giúp gì cho ta được đâu mà mong, vô ích.
Chúng tôi bàn định với nhau, chỉ có cầu viện Nhật Bản. Lúc ấy Nhật Bản mới phát lên hùng cường mà họ cũng là 1 dân tộc da vàng ở châu Á như ta, lại vừa mới đánh thắng Nga xong, không chừng họ có ý muốn làm bá chủ cả châu Á, vậy thì họ giúp ta để tước bớt khí lực của châu Âu đi, cũng có điều lợi cho họ vậỵ Nếu ta sang kêu ca thống thiết với họ, tưởng gì chớ món quân giới, hoặc cho ta mượn, hoặc giúp ta mua, không khó thiếc chi !
Ai nấy bàn bạc nhất định như vậy rồi, bèn tính cử 1 người làm toàn quyền đại biểu đem bức thư của ông Hội chủ qua Nhật lo việc khí giới.
Hồi đó, công việc trong đảng đang cần người có tài làm sứ, nên chi toàn hội cùng cử tôi làm chức đại biểu đi Nhật.

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button