Ngũ phụng bay về đâu ?

Trần Gia Phụng

Tạp Chí Thế Kỷ, 8/97

 

1. Khoa thi năm mậu tuất .-

Năm mậu tuất (1898), nhạm năm Thành Thái thứ mười, khoa thi hội được tổ chức tại kinh đô Huệ Trong khoa thi nầy, chỉ có một người chánh trúng cách là Nguyễn Tự Như, ban giám khảo trường thi thấy ít quá, xin vua gia ân dự hạng chánh trúng cách hai người nữa là Nguyễn Văn Trình và Phạm Tuấn, ngoài ra còn chọn thêm mười bốn người dự hạng thứ trúng cách (1). Như vậy, trước sau có tất cả mười bảy người được chấm đậu kỳ thi Hội, vào thi đình để phân định cao thấp. Kết quả thi đình chia ra như sau: tám thí sinh đỗ tiến sĩ và chín thí sinh đỗ phó bảng.

Sau đây là toàn văn phiên âm bia tiến sĩ số 26 đặt tại Văn Miếu Huế về các vị trúng tuyển khoa thi năm mậu tuất (2).

Hoàng Triều Thành Thái Thập Niên Mậu Tuất Khoa Tiến Sĩ Ðề Danh Bia

Tứ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân nhất danh Ðào Nguyên Phổ: tọa giám cử nhân niên canh tân dậu tam thập bát tuế Thái Bình tỉnh Thái Ninh phủ Quánh Côi huyện Ðồng Trực tổng Thượng Phán xa.

Tứ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân thất danh : Phạm Liệu tòng tỉnh cử nhân niên canh quý dậu nhị thập lục tuế Quảng Nam tỉnh Ðiện Bàn phủ Diên Phước huyện Hòa Thượng tổng Trừng Giang xạ Phan Quang tòng tỉnh cử nhân niên canh quý dậu nhị thập lục tuế Quảng Nam tỉnh Thăng Bình phủ Quế Sơn huyện Xuân Phú trung tổng Phước Sơn thượng xạ Nguyễn Quý Song giáp ngọ khoa cử nhân niên canh giáp tý tam thập ngũ tuế Nghệ An tỉnh An Sơn phủ Nam Ðàn huyện Xuân Liên tổng Xuân Liễu xa. Nguyễn Văn Trình tọa giám ấm sinh cử nhân niên canh nhâm thân nhị thập thất tuế Hà Tĩnh tỉnh Ðô Liêu tổng Kiệt Thạch xã Cơ Trúc thôn. Phạm Tuấn Thăng Bình phủ giáo thọ cử nhân xuất thân niên canh nhâm tý tứ thập thất tuế Quảng Nam tỉnh Ðiện Bàn phủ Diên Phước huyện Phú Khướng thượng tổng Xuân Ðài thôn. Nguyễn Tự Như Tuy An phủ dực thiện cử nhân xuất thân niên canh Canh Thân tam thập cửu tuế Quảng Trị tỉnh Triệu Phong phủ Gio Linh huyện An Xá tổng Hà Thướng xạ Bùi Thức bính tuất khoa nhân niên canh kỷ mùi tứ thập tuế Hà Nội tỉnh Lý Nhân phủ Thanh Liêm huyện Mơ Trường tổng Châu Cầu xả.

Tạm dịch nghĩa :

Bia đề tên tiến sĩ khoa mậu tuất hoàng triều Thành Thái năm thứ 10.

Ban đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân một người :

Ðào Nguyên Phổ, cử nhân, học trường quốc tử giám, sinh năm tân dậu, ba mươi tám tuổi, người làng Thượng-Phán tổng Ðồng-Trực, huyện Quánh-Côi, phủ Thái-Ninh, tỉnh Thái-Bình (3).

Ban đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân bảy người :

– Phạm Liệu, cử nhân, học trường tỉnh, sinh năm quý dậu, hai mươi sáu tuổi, người làng Trừng Giang, tổng Ða Hòa thượng, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

– Phan Quang, cử nhân, học trường tỉnh, sinh năm quý dậu, hai mươi sáu tuổi, người làng Phước Sơn thượng, tổng Xuân Phú trung, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

– Nguyễn Quý Song, cử nhân khoa giáp ngọ, sinh năm giáp tý, ba mươi lăm tuổi, người làng Xuân Liễu, tổng Xuân Liên, huyện Nam Ðàn, phủ An Sơn, tỉnh Nghệ An.

– Nguyễn Văn Trình, cử nhân, ấm sinh học trường quốc tử giám, sinh năm nhâm thân, hai mươi bảy tuổi, người thôn Cơ Trúc, làng Kiệt Thạch, tổng Ðô Liêu, huyện Can Lộc, phủ Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

– Phạm Tuấn, giáo thọ phủ Thăng Bình, xuất thân cử nhân, sinh năm nhâm tý, bốn mươi bảy tuổi, người thôn Xuân Ðài, tổng Phú Khướng thượng, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

– Nguyễn Tự Như : Dực thiện phủ Tuy An, xuất thân cử nhân, sinh năm canh thân, ba mươi chín tuổi, người làng Hà Thượng, tổng An Xá, huyện Gio Linh, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

– Bùi Thức, cử nhân khoa bính tuất, sinh năm kỷ mùi, bốn mươi tuổi, người làng Châu Cầu, tổng Mơ Trường, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội.

Những thí sinh trúng tuyển tiến sĩ mới được khắc tên vào bia đá còn những người đỗ phó bảng thì không được. Khoa nầy ngoài tám tiền sĩ còn lấy đỗ chín phó bảng trong đó có hai người Quảng Nam là ông Ngô Truân đứng đầu và ông Dương Hiển Tiến đứng cuối danh sách phó bảng (4).

Như vậy, trong khoa thi đình năm mậu tuất 1898, không có ai đỗ đệ nhất giáp hay tiến sĩ cập đê Người đỗ đầu chỉ là đệ nhị giáp tức hoàng giáp hay tiến sĩ xuất thân, sau đó là bảy đồng tiến sĩ xuất thân (hạng thứ) cộng thêm chín phó bảng, tất cả là mười bảy ngườị Chín phó bảng là : Ngô Truân, Nguyễn Viết Tuyên, Nguyễn Duy Thắng, Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Ðạo Quán, Nguyễn Văn Ðàm, Nguyễn Ðức Ðàm, Trần Ðình Bách, Dương Hiển Tiến. Trong số mười bảy người trúng tuyển nầy thì tỉnh Quảng Nam có năm người, ba tiến sĩ và hai phó bảng. Trong năm người nầy, thứ tự đỗ cao thấp là : Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn (đồng tiến sĩ xuất thân), Ngô Truân, Dương Hiển Tiến (phó bảng). Ngoại trừ Phan Quang là người huyện Quế Sơn phủ Thăng Bình, bốn người còn lại cùng huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn.

2. Ngũ phụng tề phi

Việc năm người cùng tỉnh đỗ đồng khoa đình thí là một sự kiện hiếm có trong lịch sử khoa cử nước ta. Sau kỳ thi hội và thi đình thường có nhiều lễ lạc chúc tụng các tân khoa như yến tiệc, coi hát, xem hoa trong vườn ngự uyển và nhất là lễ vinh quy bái tộ Các quan chức các địa phương phải cử người đến gặp các tân khoa để tổ chức đám rước về quê. Không có tài liệu nào ghi lại lễ vinh quy của năm vị đại khoa Quảng Nam năm 1898, mà ngày nay chỉ nghe lưu truyền lại rằng năm vị nầy được được vinh danh là Ngũ phụng tề phi tức là năm con chim phụng cùng bay.

Thuyết thứ nhất về Ngũ phụng tề phi nói rằng sau khi năm thí sinh cùng tỉnh Quảng Nam đồng thi đỗ, vua Thành Thái (trị vì 1889-1907) và triều đình Huế “ban cho mới vị bốn chữ Ngũ phụng tề phi (năm con phụng cùng bay) (5).

Việc vua Thành Thái và triều đình tặng cờ Ngũ phụng nếu có là một vinh dự lớn chẳng những cho năm tân khoa mà còn cho toàn thể dân chúng Quảng Nam. Nhưng rất tiếc, rà soát lại trong sử sách về học thuật khoa bảng triều Nguyễn đều không có ghi lại điều nầy, kể cả các sách của Cao Xuân Dục, về đăng khoa lục cũng như về điạ phương chị Các sách của các tác giả địa phương Quảng Nam thời đó, hoặc sau một chút, thời Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng cũng không thấy nhắc đến. Một hành động ưu ái đặc biệt như thế của vị hoàng đế nước Nam mà trước sau không được ghi lại, đồng thời một cuộc vinh quy về tỉnh rầm rộ, có cờ biển Ngũ Phụng tề phi như thế mà chẳng có sách vở nào lúc đó nhắc đến có nghĩa là rất tiếc đã không xảy ra.

Thuyết thứ hai về lá cờ trên đó có thêu bốn chữ Ngũ phụng tề phi là lá cờ do ông Ðào Tấn (1845-1907) tặng. Thuyết nầy cho rằng khi các tân đại khoa trở về Quảng Nam, tổng đốc Quảng Nam lúc ấy là Ðào Tấn và đốc học Quảng Nam là Trần Ðình Phong đã tặng lá cờ nầy cho các tân khoa (6). Nhưng đọc kỹ lại tiểu sử Ðào Tấn, trong suốt sự nghiệp quan lại của ông, không có khi nào Ðào Tấn làm tổng đốc Quảng Nam cả.

Ðào Tấn, tự là Chỉ Phúc, hiệu là Mộng Mai hay Mai Tăng, sinh năm 1845 tại Bình-Ðịnh, lúc nhỏ đi học với tú tài Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng nổi tiếng như Ngũ Hổ, Võ Tam Tư chém cáo, Nhạc Phi phá biạ Chịu ảnh hưởng của thầy, Ðào Tấn đã tập viết tuồng lúc còn đi học, đỗ cử nhân trường thi Bình-Ðịnh năm 1867 (đinh mão) (7). Năm 1871, Ðào Tấn làm hiệu thư trong nội các viện ở Huế, soạn thảo các kịch bản tuồng theo lệnh của vua Tự Ðức (trị vì 1847-1883). Năm 1874, ông đi làm tri phủ Quảng Trạch (Thừa Thiên) rồi lần lần lên Phủ Doãn Thừa Thiên năm 1878 (8). Năm 1883, Tự Ðức từ trần, tình trạng triều đình xáo trộn, Ðào Tấn từ quan về quệ Khi Ðồng Khánh lên ngôi năm 1885, Ðồng Khánh triệu ông ra làm quan phủ Doãn trở lạị Năm 1889, Ðào Tấn ra làm tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh) lần thứ nhất, rồi về lại kinh đô Huế làm thượng thư bộ Công, qua bộ Binh, đến bộ Hình. Năm 1898, ông ra làm tổng đốc An Tĩnh lần thứ nhị Trong thời gian nầy, Phan Bội Châu định khởi nghĩa bị bại lộ nhờ Ðào Tấn che chở mới khỏi bị bắt. Năm 1902, Ðào Tấn về lại Huế làm thượng thư bộ Công rồi xin về hưu trí năm 1904. Ðào Tấn từ trần năm 1907. Ông sáng tác nhiều vở tuồng rất nổi tiếng như Diễn võ đình, San hậu, Ðào Phi Phụng… Như vậy, trong suốt cuộc đời của Ðào Tấn, ông từ Bình Ðịnh ra Huế làm quan, rồi ra Nghệ An Hà Tĩnh, chứ chưa bao giờ ghé lại Quảng Nam làm tổng đốc, cho nên không thể nói là “tổng đốc Quảng Nam Ðào Tấn” đã tặng cờ các tiến sĩ.

Ngang đây, có một số câu hỏi cần được đặt ra : nếu không có chuyện lá cờ thì huyền thoại nầy từ đâu mà có. Nếu có chuyện lá cờ, thì ai tặng lá cờ, tặng cho ai và tặng trong trường hợp nào ? Ai được vinh dự giữ lá cờ đó ? Nếu một trong những tân khoa được giữ lá cờ, thì gia phả trong gia đình của tân khoa đó thế nào cũng có ghi lại việc nầy vì vào thời trước, đây là một vinh dự lớn lao mà gia đình chắc chắn không thể quên ghi vào gia phả . Nhưng không có gia đình con cháu của vị đại khoa nào trong Ngũ phụng tề phi ghi nhận điều nầy cả .

Có một thuyết thứ ba về vấn đề lá cờ Ngũ phụng tề phi. Theo thuyết nầy, ngày xưa, trước khi trình diễn vở tuồng hát bội chính thức, các thầy tuồng, tức các đạo diễn, cho bắt đầu buổi hát bằng một màn giáo đầu ngắn về một chuyện thời sự, thường thường là chúc tụng quan khách về một sự kiện quan trọng hoặc một chuyện vui vẻ mới xảy ra cho quan khách hoặc gia đình quan khách. Ví dụ vua hoặc một vị quan, hoặc một khách quý của buổi diễn tuồng vừa mới có con, con mới thi đậu, con mới cửi vợ hay lễ sinh nhật, tứ, ngũ, lục tuần…

Sau khoa thi tiến sĩ năm mậu tuất (1898), các tân khoa được dự yến tiệc vua ban và được dự buổi hát bội cung đình vì lúc đó, Ðào Tấn đã huấn luyện được một đoàn hát trong nội cung rất nổi tiếng. Chính trong buổi hát bội cung đình nầy, đạo diễn Ðào Tấn đã chúc mừng năm vị đồng khoa người Quảng Nam bằng một lá cờ của đoàn hát phất qua phất lại trên sân khấụ Trên lá cờ có thêu năm con chim phụng, ba con đang bay và hai con đang nhắp cánh sửa soạn baỵ Ba con đang bay tượng trưng cho ba vị tiến sĩ và hai con còn đậu trên cành mới nhắp cánh sửa soạn bay, tượng trưng cho hai vị phó bảng.

Trong lúc màn chúc tụng trình diễn trên sân khấu, Ðào Tấn tặng cho mới vị tiến sĩ một bài thơ:

Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Liệu :

Chiết quế nhơn tùng nguyệt điện lai,
Ðình bôi vị vấn thiếu niên tài,
Khán hoa mã quá song kiều lộ,
Thùy vị nam nhi đệ nhất maị

Tạm dịch nghĩa :

Bẻ về cành quế Hạng Nga,
Chén nồng, xin hỏi trẻ mà tài cao,
Xem hoa cởi ngựa qua cầu,
Cành nam ai kẻ trổ đầu hoa maỉ

Bài thơ tặng tiến sĩ Phan Quang :

Giang sơn thành thục vị tài đa,
Tam quế tề khai nhất vạn hoa,
Cánh hữu Quảng Hàn cung tại khách,
Dũ tương thể bút tả Hạng Ngạ

Tạm dịch nghĩa :

Non sông un đúc lắm tài cao,
Ba cụm đỗm bông quế một màu,
Có khách Quảng Hàn vừa mới đến,
Bút hoa tô nét nguyệt thanh taọ

Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Tuấn :

Vận hội tuần hoàn ngũ thập niên,
Thử ban tương kế xuất danh hiền,
Trúc ba nhân khứ Hà ba tại,
Nhụy bản du truyền giáp ất tiên.

Tạm dịch nghĩa :
Năm mươi năm hội tuần hoàn,
Tôi hiền liên tiếp nảy vang đất nầy,
Cụ Hà đó, cụ Trúc đi,
Bút tiên giáp ất ghi tên bảng vàng (9).

Theo thuyết nầy, chẳng có chuyện vua Thành Thái hay tổng đốc Ðào Tấn ban cờ, chẳng có đại tân khoa nào được giữ cờ, mà đó chỉ là lá cờ của đoàn hát cung đình trong một buổi trình diễn giúp vui cho các vị tân khoa sau buổi đại yến vua ban, đặc biệt tác giả Ðào Tấn, nhà soạn tuồng chính thức của cung đình nhà Nguyễn, lúc bấy giờ đang làm thượng thư bộ Hình trước khi ra làm tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), đã đạo diễn một màn ngắn để vinh danh các tân khoa tiến sĩ, nhất là năm vị sĩ tử Quảng Nam cùng thi đỗ một lần. Ðáng chú ý là Ðào Tấn chỉ làm thơ tặng ba vị tiến sĩ, chứ không đề cập đến hai vị phó bảng. Như thế, sao gọi là Ngũ phụng tề phi ?

Cuối cùng, chúng ta không nên bỏ qua một truyền thuyết nữa : đó là tích Ngũ phụng tề phi không phải lần đầu tiên xuất hiện với năm vị đại khoa đất Quảng năm 1898, mà trong văn học sử Trung Hoa đã có từ lâu. Theo sách “Lư Lăng thi chú” (10), bên Trung Hoa, thời Tống Thái Tông (trị vì 976-1003), có năm người cùng quận Lư Lăng tên là Giả Hoàng Trung, Tống Bạch, Lý Chí, Lã Mông Chính, Tô Dị Giản, cùng trúng tuyển chức “Hàn lâm học sĩ ” Một vị đại quan trong triều, tên Hổ Mông, đã làm thơ mừng các tân quan hàn lâm học sĩ, trong đó có câu “Ngũ phụng tề phi nhập hàn lâm” nghĩa là “Năm con chim phụng cùng bay vào viện hàn lâm.”

Do tích cũ nầy, có người hay chữ nhớ đến chuyện xưa, đã gọi năm vị đại khoa Quảng Nam năm 1898 là Ngũ phụng tề phi. Từ đó, chuyện Ngũ phụng tề phi được truyền khẩu từ người nầy qua người khác, từ thời nầy qua thời khác, rồi dần dần không ai còn nhớ xuất xứ như thế nào.

Thuyết nầy có lý ở chỗ tại Quảng Nam không phải chỉ xuất hiện danh xưng Ngũ phụng mà còn có hai danh xưng khác nữa là Tứ kiệt và Tam hộ Tứ kiệt là bốn người Quảng Nam đậu phó bảng đồng khoa tân sửu (1901) là Nguyễn Ðình Hiến, Nguyễn Mậu Hoán, Võ Vỹ, Phan Chu Trinh. Tam hổ là ba người Quảng Nam đậu thủ khoa ba kỳ thi hướng tại trường thi Thừa Thiên trong thời gian gần nhau và sống đồng thời với nhau là Phạm Liệu (năm 1894), Huỳnh Thúc Kháng (năm 1900) và Võ Hoành (năm 1903) (11).

Thuyết nầy có thể bổ túc cho thuyết thứ ba trên đây vì biết đâu Ðào Tấn là người học rộng, biết nhiều chuyện xưa tích cũ để viết tuồng, nên ông đã mượn đoạn sử nhà Tống, mà Tống Nho rất được nhà Nguyễn quý chuộng, để vinh danh các nhà tân khoa Quảng-Nam năm 1898.

3. Ngũ phụng bay về đâu ?

Năm người đồng hướng Quảng Nam đỗ đạt cùng một lần là một niềm vinh dự và khích lệ lớn đối với sĩ tử Quảng Nam lúc đó. Nhưng điều quan trọng là sau hào quang cử nghiệp, họ đã hành xử như thế nào ? Hành trạng của họ ra sao ? Nói cách khác, năm con chim phụng Quảng Nam khoa mậu tuất đã bay về đâu ?

Con chim đầu đàn là Phạm Liệụ Phạm Liệu, cháu nội của Phạm Hữu Nghi (đỗ hương cống tức cử nhân tại trường Trực Lệ tức Thừa Thiên năm 1821, tham tri bộ Lễ thời Minh Mạng), sinh năm 1873 (quý dậu), người làng Trừng Giang, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn. Năm 1894 (giáp ngọ), Phạm Liệu đỗ đầu kỳ thi Hương tại trường Thừa Thiên. Sau khi đỗ thứ nhì kỳ thi tiến sĩ tại Huế năm 1898 (mậu tuất) ông ở lại Huế học thêm tiếng Pháp tại Ðại Pháp Tự Thoại Học Ðường đến năm 1900 mới tốt nghiệp.

Phạm Liệu bắt đầu sự nghiệp quan lại từ chức vụ tri huyện Ðông Sơn (Thanh Hóa) năm 1901 rồi đi lên dần dần. Năm 1905, ông về Huế làm chủ sự bộ Hình, đi tri huyện Phù Cát (Bình Ðịnh) năm 1908, về làm viên ngoại phụ chánh viện cơ mật năm 1912, bổ án sát tỉnh Quảng Ngãi năm 1914. Tại đây, năm 1916, Phạm Liệu đã phát hiện kế hoạch khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội Trung Kỳ do vua Duy Tân (trị vì 1907-1916) đứng đầu. Ông báo cho tuần vũ Quảng Ngãi và công sứ Pháp tại Quảng Ngãi biết. Viên công sứ điện về Huế và các nơi đề phòng, do đó cuộc khởi nghĩa thất bại, Thái Phiên, Trần Cao Vân bị chém ở An Hòa (Huế), vua Duy Tân bị Pháp đày đi đảo Réunion trong Ấn Ðộ dương. Sau đó, Phạm Liệu được thăng quan nhanh chóng, lên đến thượng thư bộ Binh năm 1929. Năm 1933, ông bị thay thế trong đợt trẻ hóa và Âu hóa lớp thượng quan khi vua Bảo Ðại (trị vì 1925-1945) du học từ Pháp trở về cầm quyền (12). Phạm Liệu về hưu trí và mất ở quê nhà năm 1937.

Phan Quang, sinh năm 1873 (quý dậu), cháu nội của Phan Văn Thuật (đỗ cử nhân năm 1840, bố chánh Tuyên Quang), người huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, đỗ cử nhân thứ ba trong ká thi Hương trường thi Thừa Thiên năm 1894, đỗ tiến sĩ thứ ba trong khoa thi Hội 1898. Cũng như Phạm Liệu, Phan Quang ở lại Huế học thêm tiếng Pháp đến năm 1900.

Năm 1901, Phan Quang làm tri huyện Lệ Thủy, rồi tri huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Năm 1905, Phan Quang xung đột với viên công sứ Pháp về vấn đề thuế điền thổ nên bị triệu hồị Năm 1910, Phan Quang được phục chức, đi làm giáo thọ Tuy An (Phú Yên) rồi lên dần dần đến tham tri bộ Hình năm 1926. Năm 1930, Phan Quang về quê hưu trí và từ trần năm 1939.

Phan Quang có người anh là tú tài Phan Xán, hai người em là tú tài Phan Ấm và Phan Vĩnh đỗ cử nhân năm 1906. Phan Quang là phụ thân của sử gia Phan Khoang và nhà văn Phan Du.

Phạm Tuấn hay Phạm Trọng Tuấn, lớn tuổi nhất trong Ngũ phụng tề phi, người làng Xuân Ðài, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, sinh năm 1852 (nhâm tý), đỗ cử nhân năm 1879 (kỷ mão) tại trường thi Thừa Thiên, được chấm đỗ kỳ thi hội năm 1885 (ân khoa khi Hàm Nghi lên ngôi), nhưng chưa công bố kết quả thì xảy ra binh biến đêm 4-7 nên không được thừa nhận.

Trong khoa thi hội năm 1898, Phạm Tuấn chỉ được bảy phân, còn thiếu một phân mới hợp cách trúng tuyển nhưng vì khoa nầy quá ít người trúng cách nên Phạm Tuấn được gia ân cho đổ. Phạm Tuấn được bổ làm huấn đạo Quế Sơn năm 1888, thỉnh thoảng có giữ chức vụ hành chánh, nhưng đa phần ông phụ trách về ngành giảng dạỵ Năm 1908, Phạm Tuấn được bổ làm đốc học Hà Tĩnh. Năm 1913 (quý sửu), ông về hưu trí tại quê nhạ Phạm Tuấn nổi tiếng về tài làm câu đối, có lần được cụ Phan Bội Châu rất khen ngợi.

Ngô Truân, hay Ngô Trân, Ngô Chuân, Ngô Lý, người gốc làng Mông Lãnh, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, sau dời đến làng Cẩm Sa, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, đỗ cử nhân thứ tư tại trường thi Thừa Thiên năm 1894 (giáp ngọ). Trong khoa thi hội 1898, Ngô Truân bị thiếu một phân nên không được chấm đỗ tiến sĩ, ông đành xếp hạng đầu trong danh sách phó bảng. Ông được bổ làm tri huyện Thạch Hà, Nghệ An nhưng chẳng bao lâu qua đời vì bạo bệnh.

Dương Hiển Tiến, sinh năm 1866 (bính dần), người làng Cẩm Lậu, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, đỗ cử nhân trường thi Thừa Thiên năm 1891 (tân mão), đỗ phó bảng chót trong khoa thi đình năm 1898 (mậu tuất). Ông từ trần sớm khi chưa ra làm quan.

Ngoài sự nghiệp quan lại trong một triều đình do người Pháp bảo hộ, các vị tiến sĩ, phó bảng Ngũ phụng tề phi trên đây chẳng làm được việc gì xuất sắc, kể cả không để lại một tác phẩm văn chướng giá trị nào. Từ việc học giỏi, đỗ cao đến khi ra đời ứng dụng tri thức, đóng góp xây dựng quốc gia xã hội là một bước rất ngắn, nhưng rất khó khăn và khác biệt, không phải ai cũng làm được.

Trước đó không lâu, tại Quảng Nam, đã xuất hiện nhiều bậc đại khoa không có hào quang lấp lánh như Ngũ phụng tề phi đã để lại sự nghiệp lưu danh muôn thuở như Phạm Phú Thứ (1821-1882), tiến sĩ năm 1843, Hoàng Diệu (1832-1882), phó bảng năm 1853, Trần Văn Dư (1842-1885), tiến sĩ năm 1875, Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887), phó bảng năm 1879.

Sau Ngũ phụng tề phi, cũng từ Quảng Nam, những đại khoa lặng lẽ rời trường thi ở kinh đô Huế như Phan Chu Trinh (1872-1926), phó bảng năm 1901, Trần Quý Cáp (1870-1908), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) tiến sĩ năm 1904, lại là những người khởi xương phong trào duy tân vào đầu thế kỷ 20, làm thay đổi mạnh mẽ tiến trình văn hóa dân tộc, ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử hiện đại Việt Nam.

Như vậy năm con chim phụng đất Quảng cùng tung cánh rầm rộ trong khoa thi đình năm mậu tuất (1898), ngoài tiếng tăm đỗ đạt ban đầu, chẳng bay đâu xa mà duy nhất chỉ để lại cho
con cháu đời sau tấm gương hiếu học mà thôị Họ chỉ là những bông hoa rộ nở của nền khoa cử cổ điển Quảng Nam, tàn phai theo thời gian và dần dần trở thành huyền ảnh của một thời vàng son khoa bảng đã qua.

CHÚ THÍCH :

(1) Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Lê Mạnh Liêu dịch, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài-Gòn, 1962, tt. 228-233.

(2) Bia tiến sĩ số 26 đặt tại Văn Miếu Huế gồm hai phần : phần đầu khắc khoa thi năm mậu tuất (1898), phần thứ nhì khắc khoa thi năm tân sửu (1901). Không khắc tên các phó bảng. Những chữ trên bia khắc lớn, chúng tôi in đậm.

(3) Ðào Nguyên Phổ, tên thật là Ðào Văn Mai, sinh năm 1861 (tân dậu), người tỉnh Thái-Bình, đỗ cử nhân trường Hà-Nội, Nam Ðịnh (thi chung ở trường Thanh-Hóa) năm 1884 (giáp thân), đỗ đầu ká thi đình năm 1898 (mậu tuất). Lúc đầu, Ðào Nguyên Phổ làm quan ở Huế, nhưng ông lại có tư tưởng cấp tiến, hay tìm đọc các tân thư từ nước ngoài đưa vào rồi cho Phan Chu Trinh mượn đọc, sau ra bắc, làm báo và ggiúp Lương Văn Can mở Ðông Kinh Nghĩa Thục năm 1906. Ngoài việc viết báo, Ðào Nguyên Phổ còn viết sách, đã để lại sách
Việt sử tân ước.

(4) Về tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, thi hướng, thi hội, thi đình, Văn miếu, trường thi, xin xem bài “Thi cử tại Huế trước thời Quốc Học” của cùng người viết trên Thế kỷ 21 các số 87 và 88.

(5) Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài-Gòn 1960, tr.166

(6) Phạm Ngô Minh, Trương Duy Hy, Khoa bảng Quảng-Nam dưới thời nhà Nguyễn (1601-1919), Ðà-Nẵng, 1995, tr. 212. Ðốc học Trần Ðình Phong, người huyện Yên Thành, Nghệ-An, đỗ cử nhân trường Nghệ-An năm 1876 (bính tý), đỗ tiến sĩ năm 1879 (kỷ mão), là phụ thân của các ông Trần Ðình Diệm, Trần Ðình Phiên, bác sĩ Trần Ðình Nam (bộ trưởng nội vụ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945).

(7) Cao Xuân Dục, Quốc triều hướng khoa lục, bản dịch Nxb TpHCM, 1993, tr. 386.

(8) Thừa Thiên phủ Doãn là quan đầu tỉnh Thừa Thiên, chức vụ nầy do vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) lập ra năm 1823, có hàm chánh tam phẩm văn giaị (Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Trần Thanh Tâm, Nxb Thuận Hóa, 1996, tr. 172)

(9) Những bài thơ nầy theo tài liệu của Nguyễn Bội Liên, Quảng Nam nhân vật chí, bản in ronéo, Hội An 1969.

Cụ Hà là Hà Ðình Nguyễn Thuật (1842-1911), người làng Hà Lam, huyện Lễ Dương (Thăng Bình), Quảng Nam, đỗ cử nhân năm 1867, đỗ phó bảng năm 1868, từng làm chánh sứ sang Trung Hoa năm 1882, sau lên thượng thư bộ Lại, rồi bộ Hộ, bộ Binh. Cụ Trúc là Trúc Ðường Phạm Phú Thứ (1821-1882), người làng Ðông Bàn, huyện Diên Phước (Ðiện Bàn), Quảng Nam, đỗ đầu kỳ thi hướng năm 1842, đỗ đầu ká thi hội năm 1843, làm quan rất ngay thẳng, có lần phê phán sinh hoạt triều đình, bị Tự Ðức (trị vì 1847-1883) đưa đi làm lính trạm Thừa Nông. Năm 1863, làm khâm sai đại thần cùng Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp thương thuyết với Pháp về vấn đề Nam Kỳ, sau làm phó sứ cùng Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình, dần dần lên thượng thư bộ Hộ, vào Cơ mật viện, làm tổng đốc Hải Dương, hưu trí năm 1881, rồi mất tại quê nhà. Cụ là một nhà chủ trương cải cách dưới triều Tự Ðức, để lại một sự nghiệp sáng tác lớn lao như Tây hành nhật ký, Tây phù thi thảo, Giá Viên thi văn tập…

Hai chữ giáp ất ở câu chót ám chỉ bảng giáp và bảng ất tức là bảng tiến sĩ và bảng phó bảng. Toàn bộ ba bài thơ đều có không khí của các lễ lạc mừng tân khoa tại triều đình.

(10) Lư Lăng thi chú là sách viết về nền thi ca của quận Lư Lăng, tỉnh Giang Tây (Trung Hoa). Lư Lăng là quê hướng của hai đại văn hào Trung Hoa là Âu Dương Tu (một trong bát đại danh
gia) và Văn Thiên Tường.

(11) Có sách báo nêu thêm tên ông Nguyễn Ðình Hiến rồi gọi là tứ hổ, có lẽ không chính xác, vì Nguyễn Ðình Hiến đỗ thứ nhì khoa thi hướng năm 1900 tại trường thi Thừa Thiên, sau Huỳnh Thúc Kháng và trước Phan Chu Trinh. Hơn nữa, cách nói phổ thông là Ngũ phụng, Tứ kiệt (hay Tứ hùng), Tam hổ (hoặc Ngũ phụng, Tứ hổ, Tam hùng).

(12) Cuộc cải tổ triều đình ngày 2-5-1933 thay thế một loạt năm thượng thư : Nguyễn Hữu Bài (bộ lại), Tôn Thất Ðàn (bộ hình), Phạm Liệu (bộ binh), Võ Liêm (bộ lễ) Vương Tứ Ðại (bộ công). Lúc bấy giờ, ở Huế có người đã làm bài thơ hài hước về biến cố nầy :

Năm cụ khi không rớt cái ình,
Ðất bằng sấm dậy xứ Thần kinh.
Bài không đeo nữa đành dâng lại,
Ðàn chẳng ai nghe khéo dở hình.
Liệu thế không xong binh chẳng được,
Liêm đành giữ tiếng lễ không rinh.
Công danh thôi thế là hưu hỉ,
Ðại sự xin nhường kẻ hậu sinh.

Tự Thoại Học Ðường đến năm 1900 mới tốt nghiệp. Phạm Liệu bắt đầu sự nghiệp quan lại từ chức vụ tri huyện Ðông Sơn (Thanh-Hoá) năm 1901 rồi đi lên dần dần. Năm 1905, ông về Huế làm chủ sự bộ Hình, đi tri huyện Phù Cát (Bình-Ðịnh) năm 1908, về làm viên ngoại phụ chánh viện cơ mật năm 1912, bổ án sát tỉnh Quảng-Ngãi năm 1914. Tại đây, năm 1916.

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button