Từ Phan Liêu, Đặng Dung đến Nguyễn Trăi
Tâm sự của một thế hệ
trước những biến động của đất nước
ở đầu thế kỷ thứ XV
Nguyễn Xuân Phước
1
Vào cuối thế kỷ thứ 14 nước Đại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong. Các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn. Từ những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên của Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải ở đầu thế kỷ thứ 13, đến giai đoạn nầy, nhà Trần đă mất đi năng lực quốc pḥng để ǵn giữ biên giới. Nước Chiêm Thành nhỏ bé ở phương nam, dưới sự lănh đạo của Chế Bồng Nga, đă hơn 10 lần đem quân vượt biên giới phía nam xâm phạm lănh thổ và ba lần đem quân tàn phá kinh đô Thăng Long.
Trong bối cảnh đó, Hồ Quí Ly xuất hiện như một cái phao cứu văn nhà Trần. Ông đă giúp triều đ́nh cũng cố lại triều chính và quân đội. Thủy quân Đại Việt đă giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được hoạ xâm lược của Chiêm Thành. Nhưng cái phao cứu sinh Hồ Quí Ly đă trở thành sợi dây tḥng lọng lịch sử cho nhà Trần. Với khôn ngoan và mưu lược cùng với quyền lực trong tay, ông đă chấm dứt nhà Trần và mở ra triều đại nhà Hồ.
Hồ Quư Ly là một con người đầy tham vọng, và là một nhà chính trị tài giỏi quyền biến. Nhưng Hồ Quư Ly phải đương đầu với tham vọng to lớn hơn ở phương bắc. Đó là tham vọng của Minh Thành Tổ, một hoàng đế thông minh đảm lược vừa mới cưóp ngôi người cháu ở Kim Lăng, Trung Hoa.
Đầu thế kỷ 15 là thời gian Trung Hoa đă được b́nh định và bước vào giai đoạn phục hưng. Năm 1398, Minh Thái Tổ băng hà. Ông truyền ngôi lại cho cháu đích tôn, tức là Huệ Đế. Năm 1402, Huệ đế bị chú là Yên Vương Lệ (Chu Di) cứớp ngôi. Yên vương Lệ lên ngôi tức là Minh thành Tổ.
Dưới thời Minh Thành Tổ, ông đă cho tổ chức hạm đội viễn dương với 48 chiếc tàu và 28.000 thủy binh dưói quyền chỉ huy của đô đốc Trịnh Hoà viễn du khắp nơi trên thế giới. Sử cho biết hạm đội Trịnh Hoà (Zheng He) thực hiện 7 chuyến viễn du, đă chinh phục các nuóc Nam Á, qua tận Phi châu, đem về cho Minh Thành Tổ rất nhiều vật lạ quí hiếm và sự thần phục của các vương quốc xa xôi.
Sự kiện nầy nói lên một điều là đối lực của dân quân Đại Việt bấy giờ là Minh Thành Tổ, một triều đại cực thịnh của Trung Hoa.
Minh Thành Tổ muốn mở rộng biên giới về phương nam. Nhân cơ hội một số quan lại nhà Trần chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh đă phất ngọn cờ Diệt Hồ Phù Trần, để đem quân sang Đại Việt.
Năm 1406 Minh Thành Tổ phong Chu Năng làm Chinh Di Đại Tướng Quân, Trương Phụ làm Chinh Di Hữu Phó Tướng Quân cùng Mộc Thạnh làm Chinh Di Tả Phó tướng quân thống lĩnh 80 vạn quân chia làm hai cánh tràn xuống nước ta. (ĐVSKTT 307)
Thực chất của chiến dịch chinh nam với 800 ngàn quân dưới nhăn hiệu Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh là cuôc chiến tranh xâm lược đi liền với một cuộc di dân vĩ đại. Minh Thành Tổ muốn giải quyết vấn đề biên giới phương nam một lần đủ cả. Cái tàn dư của ṇi giống Bách Việt ngoan cố luôn luôn là cái gai và thách đố văn hoá với ṇi Hán. Ông muốn b́nh định Đại Việt để Đại Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc chinh nam lần nầy không phải chỉ là một cuộc viễn chinh quân sự thuần túy. Minh Thành Tổ đă phát động chiến tranh xâm lược tổng hợp quân sự, văn hoá và huyết thống. Đoàn quân 800,000 người đó có tác dụng pha loăng gịng máu của dân Việt ở phương nam, và làm thay đổi nếp sống và văn hoá Việt để đồng hoá vào Trung Hoa.
Đồng thời, mặt trận tâm lư với khẩu hiệu Diệt Hồ Phù Trần của Minh Thành Tổ đă đánh vào nhược điểm về giá trị chính thống của chính quyền Hồ Quí Ly. Đ̣n tâm lư nầy gây giao động mạnh mẽ trong quần chúng và chi phối mạnh mẽ ư chí chống xâm lăng của quân dân Đại Việt. Mất tính chính thống, Hồ Quí Ly mất năng lực đạo đức để lănh đạo công cuộc kháng chiến. Hồ Quí Ly đă thất bại trên mặt trận chiến tranh chính trị trước khi mặt trận quân sự bị sụp đổ.
Sự thất bại của nhà Hồ trong việc lănh đạo công cuộc chiến đấu chống quân Minh đă đưa Đại Việt vào ṿng nô lệ bắc triều lần thứ hai.
2.
Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trăi là ba thanh niên sinh ra lớn lên thời Trần mạt. Ba người đều là ḍng dơi của những đại quan làm việc vói triều đ́nh nhà Trần. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thân sinh cả ba đều hợp tác với chế độ mới. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên của đầu thế kỷ 15 phải chứng kiến sự phá sản của triều đại nhà Trần với những di sản lịch sử to lớn.
Nguyễn Trăi, Đặng Dung và Phan Liêu, giống như tuổi trẻ chúng ta ngày hôm nay, đều có tâm sự riêng trước hoàn cảnh bế tắc của dân tộc. Cả ba đều sinh ra và lớn lên cùng thời kỳ. Nguyễn Trăi và Đặng Dung đi t́m con đường cứu nước. Nguyễn Trăi đă thành công và Đặng Dung đă phải tuẩn tiết. Riêng Phan Liêu đă đầu hàng giặc để làm quan.
a.Phan Liêu là con của quan thái phó Nghệ An Phan Quí Hữu. Nghệ An là cửa ngơ vào Hoá Châu. Lúc ấy lực lượng của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế đang nắm giữ vùng Nghệ An Thanh Hoá. Năm 1413, Trương Phụ đem quân đánh Nghệ An. Phan Quí Hữu ra hàng. Phan Liêu được Trương Phụ cho làm tri phủ Nghệ An. Quân của Trùng Quang Đế chạy về Hoá châu. Phan Liêu đem thông tin quân số của Trùng Quang Đế cho Trưong Phụ biết. Nhờ đó, Trương Phụ đă tiêu diệt được lực lượng Nghĩa Quân. Trùng Quang Đế và Đặng Dung đều bị bắt trong trận Hoá Châu nầy và sau đó tự vẫn trên đựng giải về Kim Lăng. Do sự phản bội của Phan Liêu, chế độ nhà Trần hoàn toàn cáo chung. Đến năm 1419, Phan Liêu bất đồng quan điểm với Mă Kỳ, một tướng lănh quân Minh, nên đem quân giết quan quân nhà Minh ở Thanh hoá và chạy qua Ai lao.
Phan Liêu không đầu hàng ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh xâm lược. Ông đầu hàng vào năm 1413, tức là 6 năm sau khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân tràn vào Đại Việt. Như vậy trong thời gian đó, Phan Qú Hữu đang làm quan cho nhà Hậu Trần, đang làm công tác phù Trần.
Ở giai đoạn nầy động lực cho sự hợp tác với quân Minh không c̣n là phù Trần nữa. Sau 6 năm chiếm đóng Đại Việt quân Minh không hề quan tâm đến việc đưa con cháu nhà Trần trở lại ngai vàng. Chiến dịch Diệt Hồ Phù Trần đă hiển nhiên trở thành cuộc chiến tranh xâm lược. Ở giai đoạn nầy, hàng quân Minh là sự chọn lựa giữa cái chết vinh v́ đất nước và cái sống nhục theo quân xâm lược, là chọn lựa giữa đi với Trùng Quang vào núi kháng chiến và theo giặc Minh làm quan. Phan Liêu chọn con đường thứ hai.
Cuộc nổi loạn của Phan Liêu năm 1419 chắc chắn đă gây giao động mạnh trong hàng ngũ quân Minh. Nhưng v́ cuộc nổi loạn không có tầm vóc lớn nên không gây ảnh hưởng rộng răi và bị tiêu diệt ngay. Sau đó ông đă trốn sang Ai Lao và mất hút vào trong lịch sử.
Ở Phan Liêu chúng ta thấy được tính chất bất định của một con người đă mất định hưóng dân tộc. Ông hành xử bởi cá nhân và v́ cá nhân. Ngay cả khi ông nổi loạn chống quân Minh, cái động lực chính là mâu thuẩn quyền lợi và cá tính giữa ông và Mă Kỳ. Do đó, ông không thấy được lực lượng Lam Sơn đang lớn mạnh, đang xoay đổi vận hội của dân tộc.
b.Đặng Dung là con của quốc công Đặng Tất một đại quan nhà Trần, Cũng như tất cả những quan lại dứoi triều mạt Trần, Đặng Tất đă hợp tác với chính quyền Hồ Quí Ly. Khi Trương Phụ đem quân xâm chiếm nước ta, Đặng Tất đang làm Đại Tri Châu ở hạt Hoá Châu. Lúc đầu ông theo giặc Minh được Trương Phụ cho tiếp tục giữ chức vụ cũ. Đến khi Giản Định Đế khởi nghĩa th́ ông đem thành Nghệ an dâng cho Giản Định, và dâng con gái vào hậu cung. Đặc biệt Hoá Châu là vùng địa đầu ở phía nam của Đại Việt. Địa thế hiểm trở. Năm 1413 Trương Phụ đem quân đánh Hoá Châu. Mộc Thạnh tŕnh với Trương Phụ như sau: “Hoá Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm.” (TTK tr. 204) Với truyền thống gia đ́nh và địa phương anh linh như thế, Đặng Dung đă được hun đúc trở thành một vơ tướng của nghĩa quân nhà hậu Trần. Trong lúc gian nan chỉ huy cuộc kháng chiến, ông đă để lại cho chúng ta bài thơ Cảm Hoài được sử gia Trần Trọng Kim dịch như sau:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay,
Vai khiên trái đất mong pḥ chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đă bạc,
Gươm mài vầng nguyẹt đă bao rày.
Bài thơ nầy được danh sĩ Lư Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am Văn Tập, nhận xét:”không phải người hào kiệt, không thể làm được.” Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được Đặng Dung không những là một vơ quan, một người yêu nước, mà c̣n là một người nghệ sĩ tài hoa. Cho đến ngày hôm nay, không ai trong chúng ta đọc hai câu cuối của bài Cảm Hoài mà không xúc động trước ḷng yêu nước tuyệt vời của ông.
Thù trả chưa xong đầu đă bạc,
Gươm mài vầng nguyệt đă bao rày.
Sau khi cha ông bị Giản Định Đế Trần Ngỗi giết chết, ông thấy được viễn ảnh đen tối của cuộc kháng chiến dưới sự lănh đạo của Trần Ngỗi. Con người Trần Ngổi quá thiển cận, cục bộ và thiếu tự tin. Ông ta không thể tiếp tục lănh đạo công cuộc chống xâm lăng. Đặng Dung thấy nhu cầu của thế hệ mới đứng ra nhận trọng trách của lịch sử. Từ suy nghĩ đó, ông đă cùng người bạn đồng cảnh ngộ là Nguyễn Cảnh Dị đón Trần Quư Khoách, là người cùng trang lứa với ông, để lập làm vua vào năm 1409. Trần Quí Khoách là con Mẫn vương Trần Ngạc. Mẫn vương là con vua Trần Nghệ Tông và là anh của Giản Định Đế. Trùng quang Đế gọi Giản Định Đế bằng chú.
Để tạo sự đoàn kết trong công cuộc kháng chiến Đặng Dung cùng Trần Quư Khoách và những ngựi bạn đồng chí hướng đă tái phối trí lại lực lượng kháng chiến. Trong tổ chức mới, quyền hành của thế hệ lớn tuổi bị giảm thiểu và những ngừoi trẻ đứng ra nắm binh quyền. Giản Định Đế đưọc bố trí làm thái thựơng hoàng, một vị trí uy tín nhưng không có thực quyền. Đặng Dung cố gằng tạo sinh khí mới cho công cuộc kháng chiến bằng cách tạo điều kiện cho thế hệ trẻ đứng ra nắm chủ động việc lănh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng sinh lực nhà Trần đă hết. Sau một vài chiến thằng nhỏ, quân kháng chiến đă phạm một số sơ suất chiến lược làm mất cơ hội bắt sống Trương Phụ. Từ đó, lực lượng kháng chiến yếu dần. Đồng thời quân Minh gia tăng hành quân và Giản Định Đế bị bắt đưa về Kim lăng. Sau trận chiến ở Hoá Châu, năm 1413 Đặng Dung và Trùng Quang Đế cũng bi bắt. Đến đây nhà Trần hoàn toàn cáo chung.
Trên đường bị giải về Kim Lăng vua tôi đă trầm ḿnh tự vận. So với việc Giản Định Đế chiụ nhục về Kim Lăng, hành động đi t́m cái chết của Trùng Quang, Đặng Dung cũng như các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cho chúng ta thấy được dũng khí của một thế hệ trẻ yêu nước, rất lăng mạn, rất hào hùng, nhưng vô cùng bất hạnh.
Cuộc đời của Đặng Dung là tượng trưng cho ḷng yêu nước trung trinh, để nợ nước lên trên thù nhà. Ông mang tâm sư “Vai mang trái đất mong pḥ chúa” đến hơi thở cuối cùng. Tận trung với vua, với nhà Trần cho đến tận cùng cái vận hạn của triều đại ấy.
Khi bàn đến cái thất bại của nhà Hậu Trần, Sử thần Ngô Sĩ Liên viêt:
Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hăi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, th́ có làm được như thế hay không?.
Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, v́ sao vậy?. Bọn Dung v́ nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết ḷng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên tŕ chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ư chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Ḷng trung v́ nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn c̣n tưởng thấy được!
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư viết về nhận định của Lê Lợi về phong trào kháng chiến của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế như sau
Trước đó, bọn Đặng Tất, Nguyễn Súy ở Châu Hóa cùng lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua [tức Lê Lợi] thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu chốn núi rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, t́m mời những người mưu trí, chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. (ĐVSKTT tr. 325)
c.Nguyễn Trăi là con của Nguyễn Ứng Long tự là Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là con thứ ba của Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Ông Nguyễn Phi Khanh là một học sinh nhà nghèo học giỏi. Sử sách kể rằng quan tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Ứng Long học giỏi nên yêu mến mời làm thầy dạy cô con gái. Hai thầy tṛ yêu nhau bà Thái có thai ngoài ṿng lễ giáo. Ứng Long bỏ trốn. Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán cho người đi kiếm về để gă cô con gái đang mang thai cho Nguyễn Ứng Long. Lúc đó ông mới 19 tuổi. Khi lấy bà Thái xong, Nguyễn Ứng Long học tiếp thi Thái học sinh và đâu bảng nhăn. Tức là đậu thứ nh́ trong kỳ thi tiến sĩ. Bà Thái là người đàn bà đă được đọc sách thánh hiền từ thuở nhỏ. Cha bà là Trần Nguyên Đán là một thần đồng, đậu tiến sĩ năm 14 tuổi và là ḍng dơi Thượng tướng Trần Quang Khải, con thứ của vua Trần Thái Tông. (DVSKTT 277)
Mang trong ḿnh truyền thống thông minh xuất chúng Nguyễn Trăi đậu tiến sĩ năm 21 tuổi dưói triều Hồ Hán Thưong. Ông làm đến chức ngự sử đài chính chưởng cho đến khi nhà Minh xâm lược nước ta.
Năm 1407, Nguyễn Phi Khanh và hai em của ông bị bắt sang Trung Hoa. Khi chia tay ở Ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh dặn ḍ Nguyễn Trăi phải về lại Thăng Long để lo việc báo thù cho cha. Lúc đó Nguyễn Trăi 27 tuổi.
Trở về Thăng Long, Nguyễn Trăi nh́n đất nước tan hoang, ḷng người ly tán không khỏi cảm thấy đau thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh và 800 ngàn quân Minh đă vào Thăng Long và đóng binh khắp miền đất nước. Một số lớn nhân sự của triều đ́nh Hồ Quư Ly bị bắt về Kim Lăng. Người hàng giặc. Kẻ đi kháng chiến. Về phương diên gia tộc, Trần Thúc Dao, con trai của Trân Nguyên Đán, và là cậu ruột của Nguyễn Trăi, đă hàng quân Minh và được Trương Phụ cho giữ đất Diễn Châu. Sau nầy Thúc Dao bị Giản Định Đế giết chết. (DVSKTT tr. 313)
Từ khi Nguyễn Trăi chia tay với cha ở Ải Nam Quan năm 1407 đến khi ông t́m đến Lê Lợi năm 1416 là 10 năm. Đó là giai đoạn trong cuộc đời của Nguyễn Trăi không được lịch sử nói ǵ đến nhiều. Đó là 10 năm mà người sau nghĩ rằng Nguyễn Trăi đă nằm yên, không vọng động.
Có lẽ trong giai đoạn đó ông cũng biết công việc khởi nghĩa của Đặng Dung. Có lẽ ông đă nghe bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung lưu truyền trong đám sĩ phu yêu nước. Chắc Nguyễn Trăi cũng biết câu chuyện về khí tiết của Nguyễn Biểu khi ông mắng Trương Phụ và bị nhục h́nh đến chết. Nếu ông là ngựi yêu nước tại sao ông không chia xẻ quan điểm chính trị với Đặng Dung để phù Trần diệt Minh? Tại sao ông, là con cháu của nhà Trần, không gia nhập phong trào kháng chiến của Giản định đế và Trùng Quang Đế để khôi phục nhà Trần, để giành lại độc lập cho tổ quốc?
Liệu thái độ im lặng của ông có bị người đương thời “chụp mũ” là thiếu tinh thần ... “phù Trần” chăng?
Người đương thời nghĩ ǵ khi Nguyễn Trăi cùng với người anh em con cô con cậu là Trần Nguyên Hăn t́m đến người nông dân Lê Lợi ở Lam Sơn năm 1416?
Lê Lợi sinh năm 1385 nhỏ hơn Nguyễn Trăi 5 tuổi. Ông gặp Lê Lợi năm ông 36 tuổi và Lê Lợi 31 tuổi. Phải chăng ông chọn Lê Lợi v́ Lê Lợi là h́nh ảnh của một thế hệ mới. Nhưng nếu chọn thế hệ mới tại sao ông không chọn Trùng Quang Đế Trần Quí Khoách làm minh chủ để cùng với Đặng Dung Phù Trần Diệt Minh?
Về quan điểm thế hệ, Nguyễn Trăi rất gần với Đặng Dung. Cả hai đều quan niệm rằng cuộc chiến mới phải do thế hệ trẻ lănh đạo. Thế hệ cũ, đại biểu là Giản Định Đế Trần Ngổi, không có đủ năng lực để lănh đạo cuộc chiến chống nhà Minh. Giản Định Đế vừa lên ngôi trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn đă lo tuyển thê thiếp vào hậu cung. Chiến thắng Bô Cô chưa ráo máu giặc, Giản Định đă nghe lời hoạn quan trong triều đ́nh giết hai danh tướng có công đầu là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Những sự kiện nầy cho thấy Trần Ngỗi là con người, như Lê Lợi nhận định, ham mê dục vọng. Tệ hơn nữa, ông ta là người lănh đạo nhưng thiển cận, nghi kỵ và thiếu tự tin. Và do đó, Giản Định Đế không có khả năng tập hợp và nuôi giữ nhân tài để lănh đạo công cuộc kháng chiến.
Đặng Dung t́m đến ngừơi hậu duệ trẻ tuổi của nhà Trần là Trần Quí Khoách để tôn lên làm vua. C̣n Nguyễn Trăi t́m đến Lê Lợi, một hào trưởng vô danh ở Thanh Hoá, để tôn lên làm minh chủ.
Nhưng sự việc quan trọng hơn là Nguyễn Trăi t́m đến Lê Lợi để dâng B́nh Ngô Sách. 10 năm từ khi chia tay với cha ở Ải Nam Quan, Nguyễn Trăi đă dành thời giờ suy nghĩ về một chiến lược mới để cứu nước. B́nh Ngô Sách là kết tinh của những suy nghĩ của Nguyễn Trăi.
Ngày nay B́nh Ngô Sách đă thất lạc. Nhưng qua tác phẩm B́nh Ngô Đại Cáo chúng ta có thể thấy ngay đuợc sách lược của cuộc kháng chiên của Lê Lợ́.
Sách lược chính yếu của B́nh Ngô Sách là Mưu Phạt và Tâm Công. Đánh bằng mưu và đánh vào ḷng người. Đó là ư nghĩa của cuộc chiến tranh nhân nghĩa. Ông xây dựng quan điểm đúng đắn về chiến tranh chính nghĩa để đương đầu lại với cuộc chiến tranh giả nhân nghĩa dưới khẩu hiệu diệt Hồ phù Trần bịp bợm của Minh Thành Tổ. Ông dùng chiến tranh tâm lư chính đạo để đối phó chiến tranh tâm lư tà đạo của quân xâm lược.
Ngay ở đề tựa B́nh Ngô Sách, ông đă gọi Trung Hoa là giặc Ngô. Đây là cách dùng chữ để nhấn mạnh rằng rằng thái độ ngạo mạn của Trung Hoa gọi nguời Việt là Di, là mọi rợ, (như khi Minh đế phong Chu Năng làm “Chinh Di” Đại Tưóng Quân), là một điều xúc phạm đến truyền thống văn hoá lâu đời của Đại Việt. Ông muốn nhắc lại cho mọi ngựi biết rằng chính Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi c̣n là giặc cỏ cũng tự phong là Ngô Vương. Xuất xứ của Chu Nguyên Chương là từ Ngô Việt, một bộ phận của Bách Việt đă bị đồng hoá vào Trung Hoa. Ông gọi cuộc chiến nầy là cuộc chiến “b́nh Ngô” để trả lại Minh Thành Tổ chữ “chinh Di” mà ông dùng để gọi Đại Việt.
“B́nh Ngô” cũng xác định cuộc chiến nầy là một cuộc chiến văn hoá, để đối đầu với chiến dịch “chinh Di” của Minh Thành Tổ nhằm đồng hoá Đại Việt. Chính v́ thế trong phần mở đầu của B́nh Ngô Đại Cáo Nguyễn Trăi khẳng định giá trị truyền thống lâu đời của văn hoá phương nam: “Như nưóc Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đă lâu, Sơn hà cương vực đă chia, Phong tục bắc nam cũng khác”.
Đồng thời, ông bổ xung ư niệm nhân nghĩa mông lung của Nho Giáo bằng cách đưa ư niệm nầy vào thực tế chính trị. Theo ông, đối tượng của chính trị là nhân dân, không phải là huyết thống hay ḍng họ. Vai tṛ của nhà cầm quyền phải làm sao cho nhân dân sống an cư lạc nghiệp. Do đó, nhân nghĩa không nằm ở khẩu hiệu, ở tuyên truyền. Nó nằm ở chổ khi thực hiện cái mà ngựi ta gọi là điều nhân nghĩa đó, có làm cho nhân dân đưọc hạnh phúc ấm no hay không. Ông đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc những người lănh đạo ưa nói điều nhân nghĩa phải chứng minh đưọc khả năng đem lại cơm no áo ấm cho nguời dân cách cụ thể. Cái cụ thể đó ngày nay đưọc gọi là lợi tức b́nh quân đâu ngựi và những chỉ số phát triển kinh tế quốc gia.
Và nữa, nếu phải phát động một cuộc chiến tranh nhân nghĩa th́ mục đích của nó là để triệt tiêu bạo quyền, chứ không phải để xây dựng một chế độ cường bạo hơn, độc ác hơn. Khi một chế độ mới độc ác hơn đưọc thiết lập để thay thế chế độ cũ, lập tức, mọi khẩu hiệu nhân nghĩa trong cuộc chiến đều mất giá trị. Và cuộc chiến đó trở nên mất chính nghĩa.
Do đó, nhân danh “phù Trần” hay bất cứ một lư tuởng vĩ đại nào để thay đổi văn hoá dân tộc, để ngăn sông cấm chợ, để bóc bột nhân dân, làm đời sống nhân dân bất ổn định, làm cho nhân dân cùng khổ một điều bất nghĩa, là một tội ác. Ông gói ghém quan điểm nầy trong câu mở đầu của B́nh Ngô Đại Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt chỉ v́ khử bạo.
Suốt hai trăm năm trước đó, Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo được coi như sách lược quốc pḥng của Đại Việt và của triều đại nhà Trần. Hai bộ sách nầy biểu tượng của đỉnh cao về tư duy quốc pḥng giúp nhân dân Đại Việt chiến thắng giặc Nguyên Mông ở thế kỷ 13. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 15, sách lược quốc pḥng của Trần Hưng Đạo không giúp nhà Trần ǵn giữ ngai vàng và bảo vệ đất nước.
Có lẽ Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo không c̣n đủ “linh nghiệm” để cứu nước và cứu nhà Trần. Hậu duệ của Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo không c̣n hùng khí của cha ông để giữ Thăng Long trước những đợt tấn công của Chế bồng Nga.
Không phải đến đời Hồ Quí Ly nhà Trần mới mất ngôi. Trước Hồ Quí Ly, nhà Trần đă một lần mất ngôi khi Trần Dụ Tông nhường ngôi lại cho Dương Nhật Lễ (1369-1370). Nếu Trần Nghệ Tông không diệt được Dương Nhật Lễ để giành lại ngôi th́ nhà Trần đă cáo chung từ năm 1369. Nhưng Trần Nghệ Tông là một vị vua nhu nhược, yếu hèn. Ông lên ngôi để kéo dài giai đoạn hấp hối của nhà Trần. Chính Trần Nghệ Tông đă mở đường cho Hồ Quí Lư cướp ngôi nhà Trần sau nầy.
Trong mười năm yên lặng, Nguyễn Trăi đă nghiền ngẫm sách lược của tổ phụ và suy nghĩ đến vận nước và vận hạn của nhà Trần. Khi viết B́nh Ngô Sách, ông đă quyết định bước ra khỏi bóng che vĩ đại của Trần Hưng Đạo. B́nh Ngô Sách, do đó, là một đỉnh cao mới trong lịch sử quốc pḥng của dân tộc để tiếp nối đỉnh cao của Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược.
Nhưng tại sao Nguyễn Trăi không dâng B́nh Ngô Sách cho Trùng Quang Đế mà phải t́m đến con người vô danh Lê Lợi ở núi Lam Sơn?
Có lẽ Nguyễn Trăi thấy được nhà Trần đă suy vong. Nói theo ngôn ngữ của dân gian th́ vận số của nhà Trần đă hết. Phù Trần không c̣n là lư tưởng và là khẩu hiệu có thể giải quyết vấn đề đất nước. Phù Trần có thể là cứu nước. Nhưng cứu nước không hẳn đồng nghĩa với phù Trần.
Quan điểm về triều đại và dân tộc của Nguyễn Trăi đă bác bỏ quan điểm phù Trần của Đặng Dung. Trong khi Đặng Dung trung trinh với nhà Trần dù cho cha ông bị Giản Định Đế giết chết. Trưóc cái thảm hoạ xảy ra cho gia đ́nh, ông không oán hận triều đ́nh . Ngược lại, ông vẫn quyết tâm theo đuổi con đường cần vương phục quốc mà ông đă chọn lựa. Đặng Dung t́m cho được Trùng Quang Đế để pḥ lên ngôi, để tiếp tục công việc cứu nước. Ḷng yêu nước và trung quân của Đặng Dung sáng chói. Nhưng Đặng Dung gắn liền dân tộc với triều đại, với những con ngựi biểu tượng của quyền lực đă một thời rất vĩ đại, rất vinh quang, nhưng đă phá sản. Đặng Dung không sai lầm. Nhưng Đặng Dung chưa t́m được, chưa thấy được cái mới, cái xuất lộ cho dân tộc.
Nguyễn Trăi khác hẳn. Mặc dù Nguyễn Trăi là hậu duệ của nhà Trần, nhưng với ông, khẩu hiệu “yêu nước là yêu nhà Trần” không c̣n đúng nữa.
Quan điểm nầy cũng phù hợp với quan điểm của Nguyễn Phi Khanh. Là rễ của quan đại tư đồ Trần Nguyên Đán, nhưng Phi Khanh bị phạt không được làm quan v́ tội “trèo cao”, v́ ông là con thường dân nhà nghèo mà dám lấy con gái quan đại tư đồ. Do đó, khi Hồ Quí Ly cướp ngôi, Nguyễn Phi Khanh nhanh chóng ra phục vụ nhà Hồ. Ông chia tay với triều đ́nh bên vợ không luyến tiếc. Chính Nguyễn Trăi cũng có thiện cảm với nhà Hồ. Trong B́nh Ngô Đại Cáo ông viết “vừa rôi nhà Hồ chính trị phiền hà”. Dùng chữ “chính trị phiền hà” để nói đến việc Hồ Quí Ly giết vua soán ngôi, Nguyễn Trăi đă coi việc việc nhà Trần mất ngôi không phải là chuyện to lớn.
Nguyễn Trăi đă giải quyết được một tâm lư cực kỳ quan trọng của một thanh niên trước cái bế tắc của đất nước. Đó là phải cắt dứt cho được cái năo trạng trung quân, cần vương trong công cuộc cứu nước tồn chủng. Ông đă bước ra khỏi tâm thức chính trị trung quân của thời kỳ phong kiến để nh́n về phía tương lai của dân tộc. Một triều đại đă chết không thể làm cho nó sống dậy, và càng không thể coi nó là cứu cánh của cuộc kháng chiến. Nguyễn Trăi coi sự sống c̣n của dân tộc quan trọng hơn là tồn vong của một triều đại. Ông tách dân tộc ra khỏi chế độ. Ông phủ nhận quan niệm “yêu nước là yêu nhà Trần”. Chính điều nầy đă đánh dấu sự trưởng thành về ư thức dân tộc.
Từ những suy nghĩ trên, Nguyễn Trăi và Trần Nguyên Hăn, lả hai hậu duệ chính thống của nhà Trần, đi t́m con đường mới. Đó là đường vào Lam Sơn. V́ chỉ có Lam Sơn mới có thể trở thành trung tâm vận động lịch sử. Và chỉ có Lam Sơn mới làm cho đất nước hồi sinh.
3.
Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trăi trở thành h́nh ảnh biểu tượng của ba thành phần thanh niên ở đầu thế kỷ thứ 15.
Phan Liêu là đại biểu cho thành phần chọn cho ḿnh chổ đứng trong hàng ngũ quân xâm lăng.
Thành phần nầy có những xu hướng khác nhau. Có những người nhẹ dạ tin tưởng vào khẩu hiểu Diệt Hồ Phù Trần của giặc nên ra hợp tác với giặc Minh. Xu hướng nầy đại biểu cho ḷng trung quân, cần vương thiển cận, cục bộ. Họ muốn trả thù cho chúa nhưng quên cái thảm hoạ mất nước. Họ sẳn sàng rước về cho dân tộc một thảm hoạ nguy hiểm hơn cái thảm hoạ thay đổi chính trị, thay đổi triều chính.
Xu hướng khác là những người thấy cái tuyệt vọng trong việc giành độc lập nên đành đứng vào hàng ngũ giặc để t́m đường sống cho cá nhân và gia đ́nh.
Tất cả những xu hướng nầy đều đứng về phía giặc làm công cụ và tay sai. Họ đă góp tay với giặc tiêu diệt sức sống văn hoá dân tộc và mọi sức đề kháng chống xâm lăng để bảo toàn lănh thổ.
Những người nầy có những lúc cũng phản tỉnh, nổi loạn. Những ngựi phản tỉnh quyết liệt như Đặng Tất đă hy sinh tất cả để theo kháng chiến. Những ngựi phản tỉnh nửa vời, như Phan Liêu, cũng nổi loạn rồi mất định hướng. Và dĩ nhiên c̣n lại những ngựi như Lương Nhữ Hốt theo giặc đến ngày giặc cuốn gói về nước.
Nhưng lịch sử cũng c̣n những Đặng Dung và Nguyễn Trăi.
Ngày nay chúng ta không thể không rung động trước bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung. H́nh ảnh của một người tráng sĩ mài gươm dưới ánh trăng mong phục thù cho chúa là h́nh đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của dân tộc. Đó là cái đẹp của ḷng yêu nước chất chứa nỗi u hoài, tuyệt vọng. H́nh ảnh đó của Đặng Dung đă khơi dậy phong trào yêu nước lăng mạn, kích động được ḷng yêu nước nồng nàn của hàng bao thế hệ cho đến ngày nay. Chính những hy sinh đó đă kết thành hồn sử linh thiêng của dân tộc và làm cho ư thức dân tộc lớn lao lên.
Nguyễn Trăi bước một bước xa hơn. Ông gắn bó cái lăng mạn của ḷng yêu nước với tinh thần yêu nước thực dụng.
Yêu nước mù quáng sẽ dễ dàng trở thành tay sai cho những chiêu bài nhân nghĩa giả dối bịp bợm của ngoại bang. Ḷng yêu nước loại đó có tác hại biến người yêu nước thành tay sai mà họ tưởng ḿnh làm cách mạng dân tộc. Họ quay mặt lại với tổ quốc, với nhân dân, tiêu diệt văn hoá dân tộc mà lương tâm không bị cắn rức.
Yêu nước lăng mạn mà thiếu tinh thần thực tế như Đặng Dung cũng không đủ liều lượng để giải quyết vấn đề đất nước.
Nguyễn Trăi quân b́nh giữa t́nh cảm yêu nước và lư trí. Ông là người biết được thời và thế. Trong những bức thư dụ hàng Vương Thông, Nguyễn Trăi đem chữ thời trong Kinh Dịch để thuyết phục. Ông viết: “tôi từng xem Kinh Dịch 384 hào, mà cốt yếu là chữ thời.”
Chữ thời cũng chính là xu thế lịch sử. Thuận xu thế lịch sử là thuận với chữ thời. Phản xu thế lịch sử là nghịch lại với chữ thời.
Khi thấy vận hạn nhà Trần đă chấm dứt, ông can đảm chia tay với quá khứ, chia tay với triều đại Lư Trần. Ông bước ra khỏi bóng che lớn của Trần Hưng Đạo để t́m đến Lê Lợi. Ông nối kết những người yêu nước mới, không nặng nợ với quá khứ, để mở ra vận hội mới cho dân tộc.
Ông quyết liệt phủ nhận và lật mặt nạ chiêu bài giả dối Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh. Nhưng ông cũng không dứng trên lập trường Diệt Minh Phù Trần để pḥ một triều đ́nh đă bị phá sản.
Nguyễn Trăi phóng tầm nh́n vào tương lai để xác định lập trường của ông. Ông đứng trên lập trựng của một nước Đại Việt mới, một nước Đại Việt sắp ra đời và sẽ phải ra đời.
Sách Tang Thương Ngũ Lục kể rằng Nguyễn Trăi và Trần Nguyên Hăn đến t́m Lê Lợi hai lần. Lần đầu gặp ngày giổ, Nguyễn Trăi thấy Lê Lợi vừa cắt thịt vừa ăn, ông thất vọng trở về. Lần thứ nh́ ông thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư ông mới vào ra mắt.
Có lẽ lần đầu Nguyễn Trăi thấy đưọc con người thật rất tầm thường của Lê Lợi, một hào trưởng đă lột bỏ hết tất cả những hào quang và huyền thoại. Khi Nguyễn Trăi gặp Lê Lợi lần thứ hai, ông thấy Lê Lợi là con người của binh thư, của đất nước. Ông thấy được Lê Lợi là con người có ư chí, biết học hỏi cầu tiến và biết tự rèn luyện bản thân. Ông đem con mắt của một nhà khoa bảng yêu nước ở Thăng Long để đánh giá một hào trưởng miền núi trong công tác cứu nước. Ông nh́n được Lê Lợi xuyên qua cái bề ngoài quê mùa thô lỗ của một nông dân. Ông thấy được những đức tính và khả năng lănh đạo trong con người của Lê Lợi. Những yếu tố nầy làm cho Lê Lợi nổi bật lên ǵữa gần 30 phong trào kháng Minh thời bấy giờ.
Về sau có người trách Nguyễn Trăi không có con mắt nh́n xa để sau nầy bị hại đến bản thân và gia đ́nh. Nhưng ở đây Nguyễn Trăi đi t́m con đường và con người cứu nước, chứ không phải đi t́m danh phận cho ḿnh và ḍng họ. Do đó, dù ông có tiên liệu được phận bạc của ḿnh với nhà Lê, v́ công cuộc cứu nước, ông vẫn dấn thân vào Lam Sơn. Đây là cái vĩ đại của con người Nguyễn Trăi.
Năm 1416, Nguyễn Trăi đă cùng 18 vị anh hùng Lam Sơn cùng nhau kết ước ăn thề ở Hội Thề Lũng Nhai. Ư niệm hôi thề là một sáng kiến cách mạng về mô h́nh tổ chức chính trị. Ư nghĩa của hội thề là sự ràng buộc những người làm việc nước bằng qui ước đạo đức để giảm thiểu tính chuyên chế, tham sân si, thủ cựu và đồng thời tăng cường tính lư tưởng, tính khai phóng và rộng lượng của người lănh đạo kháng chiến, và người lănh đạo đất nước trong tương lai. Nó là xă ước thành văn đầu tiên của Đại Việt trong thời kỳ phong kiến. Nó nối kết cuộc vận động thời đại với linh thiêng của dân tộc. Nó thiết lập giá trị đạo đức cho công cuộc cứu nước. Hội Thề Lũng Nhai, do đó, là một mô h́nh tập hợp dân tộc tân kỳ.
Biến cố Lũng Nhai, cũng như quan điểm về triều đại của Nguyễn Trăi như đă nói trên, một lần nữa xác định sự trưởng thành về ư thức dân tộc của thế hệ mới. Nhiệm vụ cứu quốc tồn chủng không c̣n là độc quyền của một ḍng họ, của triều đ́nh, của giai cấp quí tộc, mà là của mọi người, từ kẻ khoa bảng đến nông dân vô danh.
Nhờ đó, Hội Thề Lũng Nhai đă xác định được giá trị chính thống lịch sử của phong trào kháng chiến Lam Sơn, tái tạo được đạo đức của tầng lớp lănh đạo, xây dựng lại nội lực dân tộc, để h́nh thành một triều đại mới và một nước Đại Việt mới.
Từ Hội Thề Lũng Nhai, Lam Sơn đă trở thành căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Xuất phát điểm lịch sử ấy đă đẩy cuộc khởi nghĩa Lê Lợi đến thành công, đă giúp Lê Lợi giành được độc lập cho tổ quốc, khai sáng triều đại nhà Lê, hoàn thành được sứ mệnh cứu quốc tồn chủng của tiền nhân, và mở ra một thời đại phục hưng mới và lớn lao cho Đại Việt.
4.
Đă gần một ngàn năm từ khi Lư Thái Tổ dời đô về Thăng Long để củng cố nền tự chủ sau một ngàn năm bắc thuộc và mở ra thời đại phục hưng lần thứ nhất . Từ đó, lịch sử dân tộc ta đă trăi qua bao triều hưng phế.
“Từ Triệu Đinh Lư Trần xây nền độc lập
Cùng Hán ĐựngTống Nguyên hùng cứ một phương
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
nhưng hào kiệt thời nào cũng có”
Ở mỗi thời kỳ suy vong, trong xă hội cũ đă chứa đựng cái mầm sống của thời đại mới. Cái mầm sống đó là giấc mơ về một tổ quốc sẽ được hồi sinh và sự trông ngóng vào một xă hội mới tươi đẹp hơn, nhân bản hơn, khai phóng hơn. Cái lực của mầm sống đó là công cuộc tập hợp dân tộc, tập hợp những hào kiệt của thời đại. Cái định hướng để cho cái mới phải ra đời là tư tưởng chỉ đạo của thời đại. Cuộc vận động cứu nước đ̣i hỏi người làm lịch sử phải thấy được mầm sống của dân tộc trong mỗi một giai đoạn bế tắc.
Công việc khơi ḍng lịch sử của thế hệ là thực hiện cho được một cuộc tập hợp dân tộc mới. Đó là công tác quy tụ, gầy dựng và vun trồng mầm sống ấy.
Nhưng tập hợp chưa đủ. Công tác lịch sử đ̣i hỏi ngướ lănh đạo phải có một viễn kiến, một tầm nh́n lớn về con đường phục hưng dân tộc và công tác kiến thiết đất nước. Đó là nền tảng tư duy thời đại. Nền tảng tư duy giúp người lănh đạo phát hiện được xu thế lịch sử của dân tộc và thế giới để làm định hướng cho mầm sống dân tộc được bật ra và phát triển. Khi mầm sống ấy đến ngày thành thục nó sẽ bộc phát thành gịng thác thời đại, thành một bùng nổ lịch sử, nó sẽ làm vỡ những bờ đê đóng cơi, những rào cản thời đại, quét đi những tàn dư, những thối nát của xă hội cũ, để làm thành cái xuất lộ cho dân tộc. Cái bộc phát ấy là đ̣i hỏi của lịch sử để sửa sai những cái sai quấy của thời đại cũ, những cái bất hợp lư của xă hội cũ, những cái vô lư xuẩn động và cục bộ của tư duy cũ.
Xuất lộ là khởi điểm của công cuộc xoay đổi thời đại để mở ra thời kỳ phục hưng để làm cho dân tộc Đại Việt lớn lao lên, để công tác bảo vệ bờ cơi bền vững hơn, để xây dựng một đất nước hợp lư hơn, hợp với qui luật phát triển hơn, cho thuận xu thế lịch sử hơn, cho hợp với con người hơn.
Đó là ư nghĩa của cách mạng và cũng là thông điệp lịch sử của Nguyễn Trăi gởi đến cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay.
Luật Sư Nguyễn Xuân Phước
Dallas 15 tháng 10 nam 2004
Sách tham khảo
- Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, tập 1, Nhà Xuất Bản Non Nước, Toronto, Canada, 2003
- Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Lịch Sử Trung Quốc 5000 năm, Nhà Xuất Bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà Xuất Bản Văn Hoá, Hà Nội, 1997
- Nguyễn Trăi Toàn Tập, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Nhà Xuất Bản Văn Học, 2000
- Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Trăi Vê Tác Giả và Tác Phẩm, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội 2001
- Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Ấn Bản Điện Tử
- Nguyễn Trăi, Lam Sơn Thực Lục Ấn Bản Điện Tử
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Xuân Thu 1990, tái in ấn bản của Trung Tâm Học Liệu VNCH năm 1971.
- Gavin Menzies, 1421 The Year China Discovered America, Published by Harper Collins Publishers, Inc. New York, 2002
- Thích Phước An, Từ Nguyễn Trăi đến Ngô thời Nhậm và Đựng Lên Núi Yên Tử Thư Viện Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/nguyentrai-ngothoinham.htm
- Lư Đông A, Huyết Hoa, ấn bản điện tử do Hận Nam Quan ấn hành, http://chinhkhiviet.com
- Lư Đông A, Chu Tri Lục, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn hành http://chinhkhiviet.com
- Lư Đông A, Việt Sử Thông Luận, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn hành http://chinhkhiviet.com