[Quyên Book]

Đọc “GIẤC MƠ VIỆT NAM” 
của TRẦN TRUNG ĐẠO


N
hắc đến Trần Trung Đạo, người đọc sách cũng như những người quen biết luôn nghĩ rằng anh là một nhà thơ với hai thi phẩm Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Thao Thức, là một người trẻ làm thơ sớm nhứt trên liên mạng toàn cầu vào những ngày đầu hệ thống liên mạng điện toán mới thành h́nh, ít ai nghĩ đến anh đă viết văn xuôi. Và rồi người đọc lại ngạc nhiên bắt gặp tác phẩm thứ ba của anh không phải là thơ mà là một tập tùy bút và tâm bút, tác phẩm “Giấc Mơ Việt Nam”.
Tùy bút là một thể loại khó nhứt trong mọi thể loại làm tác phẩm thành công. Tâm bút là một dạng văn chương khác không thuần nhất là văn chương nhưng không dễ ǵ ai cũng viết hay v́ không đơn giản là những ḍng chữ trau chuốt bóng bẩy. Hai thể văn khó với một người cầm bút trẻ là hai thử nghiệm trên bước đường chữ nghĩa. 
Trần Trung Đạo biết rơ hơn ai khi anh đặt bút viết những ḍng chữ ấy qua hai thể văn ngắn nhất mà cũng khó khăn nhứt này. Điều đó không có nghĩa tác giả vốn thích phiêu lưu hay mạo hiểm. Và cũng không hẳn tác giả muốn trong tiểu sử của ḿnh có thêm nhiều tác phẩm để làm con toán cọng gia tài. Mà ở đó tác giả đă trang trải cả một tấm ḷng đối với quê hương, với tuổi trẻ, với những cảnh đời bạc phước do hoàn cảnh đất nước đă đưa đẩy nên những bèo giạt quá thương tâm. 
Như đă tŕnh bày, tâm bút là một thể văn không có tấm ḷng không thể nào viết hay được. Trần Trung Đạo đă mang vào những ḍng chữ của anh bằng trái tim tuổi trẻ đi vào đời bằng chính thân phận của ḿnh, nên anh đă làm cho người đọc không chỉ đọc những ḍng chữ, những mẫu chuyện kể như những ghi chép mà bằng những băn khoăn ứa lệ từ trái tim ḿnh. Nhật Kư Ngày Giỗ Cha, ai không buồn vương chút thương cảm cho người Cha xấu số và đứa con côi cút lúc tuổi c̣n quá bé bỏng để bước những bước chông chênh trên đường đời nhiều ma quỷ. 
Rồi đến Đứa Con Của Biển ta sẽ thấy thương người Mẹ bất hạnh biết dường nào! Câu chuyện về một người Mẹ quá thương tâm mà người viết mấy ḍng này nhiều lúc không dám lược kể v́ không đủ can đảm lập lại một mảnh đời nhiều nước mắt. Xin bạn đọc hăy t́m đọc rồi sẽ nhận ra cảm nhận của tôi chắc không khác ǵ các bạn. Nhưng không v́ thế mà chúng ta buồn chán bi quan. Qua ng̣i bút tác giả, t́nh mẫu tử là một tấm gương mà nếu chúng ta chưa từng nh́n qua văn chương của tác giả, ta nên t́m đọc. Ở đó là một hạnh ngộ kỳ thú, là t́nh mẹ dành chon con ở thời nào cũng c̣n và ḷng hiếu đạo dù có qua gia nan thử thách bao bận rồi “đứa con trên biển” vần trở về với Mẹ, sống gần bên Mẹ như một bông hoa đẹp đă nở vào những ngày băng giá nhất của ḍng đời.
Trong “Giấc Mơ Việt Nam” nhiều đoạn văn ứa nước mắt, đầy t́nh tự con người; những lời tâm t́nh hết sức ngọt ngào, khúc chiết mà rất lạc quan đầy hy vọng. Và đặc biệt tác giả đề cập đến những người trẻ đă thành tài nơi xứ người mà ḷng vẫn một mực thương nhớ Việt Nam qua những ḍng bút kư ngắn “Xin Đừng Quên Nơi Đây” như một tin vui cho bạn đọc về thế hệ trẻ lớn lên bên ngoài đất nước.
Và c̣n nhiều nhiều lắm những kỷ niệm thật, rất thật về những chuyến đi, những bến bờ dừng lại, mỗi mỗi là mỗi vấn vương hoài niệm, nó làm thành những ḍng tâm bút tha thiết của tác giả. 
Trong một bài viết khác dưới dạng truyện ngắn nhưng chỗ chúng tôi nhận ra đây cũng là một dạng tùy bút với tựa “Đôi Mắt”, nhằm ghi lại t́nh cảm hết sức nồng ấm qua cuộc gặp t́nh cờ không hẹn ước của hai người bạn tù một trai, một gái, rất nên thơ giữa nhân vật xưng tôi và cô gái có tên Bích Vân trong một trại giam thị xă Bạc Liêu, vừa cảm động vừa lăng mạn. Qua vỏn vẹn 11 trang sách, tác giả đă lột tả được thân phận một cô giáo tiểu học rồi ra cũng phải lao vào ṿng tù tội v́ manh áo miếng cơm mà không đánh mất ḷng nhân hậu thương người với tất cả tấm chân t́nh để không cầu mong ǵ hơn là chỉ có thương người cùng cảnh ngộ.
Đọc Giấc Mơ Việt Nam của Trần Trung Đạo, tôi liên tưởng đến Nước Mắt Trong Tim của Lê Đại Lăng(1), một tập bút kư ghi lại những mảnh đời tị nạn của người Việt Nam trong các trại cấm ở Hồng Kông sau giờ khắc định mệnh:“0 giờ ngày 16 tháng 6 năm 1988”, giờ khắc của những trại cấm mọc lên rải rác khắp các nước vùng Đông Nam Á.
Cùng với lối văn bút kư, tùy bút, tâm bút mà rất tha thiết, gần gũi, viết bằng trái tim giàu ḷng nhân ái, cả hai tác giả đă mang đến cho người đọc những cảnh đời đau xót làm xúc cảm mạnh mẽ trái tim người đọc đôi lúc v́ ḍng sống gấp gáp, vội vàng, bề bộn làm cho nhiều kỷ niệm một thời như ch́m vào quên lăng. 
So với Nước Mắt Trong Tim của Lê Đại Lăng, không gian trong Giấc Mơ Việt Nam không chỉ gói ghém trong hoàn cảnh đất nước sau tháng 4-75, rồi đến các trại tị nạn các nước vùng Đông Nam Á hoặc những cảnh đời thê thiết nơi xứ sở tạm dung, mà Trần Trung Đạo c̣n mở rộng ra những bến bờ thân ái cũ, những địa danh chỉ nghe nhắc đến thôi đă làm xao xuyến con tim. Nhưng cả hai tác giả đều cho những cảm xúc của ḿnh chảy tràn lên trang giấy bằng tất cả cơi ḷng thương người tha thiết. Họ ch́m vào đời thật để biết ḿnh sống thật. Họ ch́m vào nỗi bất hạnh của đồng bào ruột thịt để thấy chính ḿnh cũng bất hạnh khôn cùng.
Bạn đọc có thói quen đọc sách là t́m hiểu một cốt truyện hay một tư tưởng được lồng vào cốt truyện ấy. Thêm nữa, người đọc cũng thường t́m ra những điểm trau chuốt hay vụng về qua các câu văn trong bút pháp của tác giả để mà cảm hay không cảm, rồi đánh giá tác phẩm qua cảm thức của ḿnh. Trong khi đó ít ai chịu khó t́m hiểu tấm ḷng của tác giả.
Trong các tác giả có tiếng cũng thường phân chia người đọc làm hai nhóm “cảm tính” và “lư tính”, mà các nhà phê b́nh văn học thường thường nghiêng về “lư tính”. Theo đó, trong phê b́nh văn học không để t́nh cảm xen vào. Văn chương là văn chương. T́nh cảm là t́nh cảm. Nhưng khổ nỗi, văn chương không có người đọc th́ văn chương có c̣n ích lợi ǵ không, có c̣n kích thích nhà văn nhà thơ sáng tác không hay chỉ là những luận án treo trên trời để ngàn năm xa cách trần gian này như Chị Hằng và Chú Cuội trên cung trăng. Đẹp th́ đẹp đó! Hay th́ hay đó! Nhưng thiên thu vạn cổ vầng trăng và chú cuội chỉ là những ảo ảnh của đời sống. Mà con người khổ một điều là không thể sống bằng những ảo ảnh. Thấy đó mà không rờ mó được. Đẹp đó mà như không thiết thực. Do đó, những tác phẩm thuần lư tính, thuần nghệ thuật không nhất thiết phải có, không có không được. Điều đó đă có nhiều tranh luận từ hơn nữa thế kỷ trước, nhưng tới nay vẫn chưa ngă ngũ. Và đây là một đề tài khác, ngoài bài viết này.
Tuy nhiên, qua sách vở, chúng tôi có được niềm vui là hai tác giả Vơ Phiến và Nguyễn Hiến Lê không nhất thiết chỉ dùng “lư tính” để bàn về giá trị một tác phẩm qua các bài phê b́nh hay các bài đề tựa sách. 
Với Vơ Phiến, qua bộ Văn Học Miền Nam dày 3229 trang(2), đặc biệt phần Thơ, tác giả rất chú tâm đến tấm ḷng của các tác giả được đề cập trong bộ sách của ḿnh trong khi biên soạn. 
Với Nguyễn Hiến Lê khi đề tựa tập sách “Quê Hương”(3) của NGUIỄN HỮU NGƯ, ông cũng đặc biệt chú trọng đến tấm ḷng của tác giả:”Tôi không chắc rằng có nhiều độc giả thích cuốn “Quê Hương” này, nhưng riêng tôi cho nó là một ḱ thư, chưa hề thấy trong văn học Việt Nam, và tất cả những bạn của anh Nguiễn Hữu Ngư tất đều phải nhận như tôi rằng cuốn này biểu lộ rơ nhất- tuy chưa hết- tâm hồn khả ái và cái t́nh dào dạt của anh. Người sau có muốn chép lại đời anh- một đời đau khổ nhất mà cũng đặc biệt nhất trong giới văn nghệ sĩ hiện đại- tất phải dùng nó làm tài liệu chính.”(4) 
Mừng và rất mừng là trong cơi văn chương c̣n có một chỗ cho những tấm ḷng của các tác giả được nâng niu, và trân trọng. Điều ấy cho thấy một tác phẩm văn chương không nhất thiết phải rời xa con người, thuần nghệ thuật tác phẩm mới hay, mới tuyệt diệu! 
Với “Giấc Mơ Việt Nam” của Trần Trung Đạo, tôi cũng nhận ra một cơi ḷng bao la dạt dào mà tác giả đă gởi vào những trang sách mới của ḿnh. Những tâm t́nh được gởi cho cha cho mẹ, cho anh cho chị, cho thầy cho bạn và cho quê hương xứ sở không có cao vọng làm nên giấc mơ lớn lao nào khác hơn là một “que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, t́nh người, t́nh đất nước, trong ḷng mỗi chúng ta đừng tắt!”(5).
Đẹp thay một tấm ḷng!!! 

Lương Thư Trung
Boston, tháng 7- 2003.
(1) Bút kư “Nước Mắt Trong Tim” của Lê Đại Lăng, tác giả xuất bản, 1990.
(2) “Văn Học Miền Nam” của Vơ Phiến, nhà Văn Nghệ , Hoa Kỳ, 1999. 
(3)”Qê Hương”(Quê Hương), cách viết của Nguiễn Hữu Ngư.
(4) Trích trong“Để Tôi Đọc Lại” của Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất bản Văn Học, năm 2001, trang 75.
(5) Trích lời tựa “Giấc Mơ Việt Nam”, tâm bút, của Trần Trung Đạo, Xúc Tác xuất bản, năm 2003, Hoa Kỳ, trang 12.