Mùa Xuân Thương nhớ Hội An
Trần Trung Ðạo
Hội An. Tôi trở lại thành phố đó lần cuối cùng vào mùa Xuân năm 1981. Vừa bước xuống xe là tôi nghĩ ngay đến mấy câu thơ của nhà thơ Hoàng Lộc mà tôi thuộc lòng từ một đặc san Xuân của trường Trần Quý Cáp năm nào. “Chừng buổi về thăm đã tuyệt mù”, đúng vậy, sáu năm sau ngày được “giải phóng”, Hội An đã thay đổi quá nhiều. Thành phố cổ vốn đã u trầm lại càng buồn hơn, như càng già và mệt mỏi hơn xưa. Hội An giống như một thành phố của nước Pháp đang bị Đức chiếm đóng trong thời đệ nhị thế chiến mà tôi thường xem trong những phim tài liệu. Nơi đó, con người sống trong một không khí sợ hãi, lo âu, và nghi ngại lẫn nhau. Nơi đó, con người sống không có một chút hy vọng và cũng không phải là tuyệt vọng, sống như một định mệnh hơn là một chọn lựa . Nơi đó tôi khám phá ra rằng:
Bạn bè nay chẳng còn ai
Dăm đứa ở lại đạp xích lô
Dăm đứa về quê làm ruộng
Có đứa dường như đã vượt biên
Có đứa bỏ mộng làm thầy để đi bán sách
Phượng bây giờ chắc đã có chồng
Nước Mỹ xa xôi chẳng có gì đáng nhớ
Những ước mơ xanh và một thời mộng đỏ
Sẽ vàng hoe theo những tháng năm quên….
Đoạn thơ trên tôi viết cho Sài Gòn 1978 nhưng cũng rất thích hợp với Hội An vì Phượng là tên của một người con gái Hội An rất đẹp mà tôi mượn đem vào thơ. Một điều mà mọi người thường nói và được biểu đồng tình “không có nơi nào đẹp hơn quê hương mình”. Đối với những chàng trai bỏ xứ ra đi hay bị đẩy ra khỏi xứ thì cần thêm câu “và cũng không có con gái nào đẹp hơn con gái ở quê mình”. Tôi ít viết về những người con gái Hội An không phải bởi vì Hội An thời tuổi tôi có ít người con gái đẹp nhưng vì tôi chẳng có một mối tình nào đủ lớn như cỡ “Ba năm sau em trở thành thiếu phụ, ngồi ru con như ru phận mình….” của nhà thơ Đynh Trầm Ca để mang vào thơ. Ngày trước khi ở Sàigòn tôi hay đến thăm anh. Sau này anh Đynh Trầm Ca về sống ở quê, sống một đời sống khiêm nhượng trong một mái nhà tôn ở ngã ba Vĩnh Điện.
Trong những đứa bạn đang “về quê làm ruộng” thì tôi chỉ gặp lại Quốc là người duy nhất. Quốc và tôi thân nhau từ những ngày thơ ấu. Nếu tôi không gọi chắc cậu ta vẫn lầm lũi kéo chiếc xe, ở ngoài trung người ta gọi là xe bò, chở đầy đất đi qua. Chúng tôi không nói gì. Hai đứa chỉ nhìn nhau một hồi lâu. Một cuộc đối thoại vô ngôn nhưng chứa đựng cả một niềm thống hận của một thế hệ bị lịch sử bỏ quên.. Phạm Quốc, học sinh giỏi văn nhất của trường, người đã từng thi đậu thủ khoa kỳ thi đệ thất ngày xưa bây giờ là một chàng thanh niên kéo xe đất đi đắp nền nhà thuê.
Tôi còn nhớ khi lên đến lớp mười trường Trần Quý Cáp, mỗi bài luận Quốc làm đều được thầy Nguyễn Văn Liêu, dạy Việt Văn, đọc lại cho cả lớp nghe và khen đáo khen để. Các cô nữ sinh coi Quốc như thần tượng. Chẳng bù với cái “thân anh ốm yếu ho hen” của tôi chẳng cô nào thèm để ý. Quốc viết văn và Quốc làm thơ. Thơ của Quốc không có gì đặc biệt vì sự nghiệp thi ca của Quốc, nói theo kiểu Vũ Trọng Phụng, ra đời như một vì sao xấu giữa một nền trời đầy sao sáng như Luân Hoán, Tường Linh, Thái Tú Hạp, Hoàng Lộc v.v. nhưng văn của Quốc thì rất súc tích và gói ghém những suy nghĩ vượt xa hơn nhiều so với tuổi đời 15, 16 của cậu ấy. Có một lần thầy Liêu ra đề luận “Là một học sinh, em nghĩ gì về chiến tranh ?”, Quốc, thay vì tả những cảnh “đêm ngồi nhìn hỏa châu rơi” hay “Xuân nầy con không về..” theo âm điệu nhạc thời trang, cậu ta đã tuôn trào trên giấy những hằn học, những thống trách của mình trước những đau thương và tàn phá của quê hương với một bút pháp chặc chẽ cũng như một văn phong hùng hồn và cảm động. Thầy Liêu đọc lại cho cả lớp nghe với một chút e dè, vì ngôn ngữ nặng mùi oán ghét chiến tranh của cậu ấy, nhưng trong ánh mắt thầy Liêu cũng không thể che dấu niềm kiêu hãnh khi có một người học trò mang những suy nghĩ lớn dù trong tuổi còn rất nhỏ. Trong lòng thầy Liêu, Quốc sẽ là một “nhân kiệt” tương lai của vùng đất “địa linh” xứ Quảng của thầy. Thầy Liêu biết Quốc yêu nước lắm. Chơi thân với Quốc, tôi cũng hiểu điều đó. Có lần chúng tôi đang ngồi uống cà phê trong quán một quán cà phê ở gần khu Khổng Miếu, trong lúc cái máy hát của chủ quán đang phát một bản nhạc của Phạm Duy, bài Bà Mẹ Gio Linh, “Quân thù đã bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu, ngẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu, chiều về thôn xóm buồn teo, xa xa tiếng chuông chùa réo…” tôi thấy nước mắt Quốc nhỏ xuống. Giọt nước mắt trong như ngọc của một tâm hồn thiếu niên Việt Nam đang đau vì vận nước. Văn chương của cậu ấy hùng hồn bao nhiêu, cứng rắn bao nhiêu thì tính tình của cậu lại mềm dịu bấy nhiêu. Cậu rất dễ khóc. Năm 1972, tôi rời Hội An vào Sài Gòn học đại học và Quốc cũng rời Hội An để đi Thủ Đức. Quốc chẳng may bị thi rớt tú tài 2 và không còn tuổi để tiếp tục xin hoãn dịch.
Năm 1975, Quốc là một Trung Úy Pháo Binh, sau 75 đi tù bốn năm ở Tiên Lãnh trước khi về quê kéo đất đắp nền nhà thuê. Anh Trung Úy Pháo Binh Phạm Hồng Quốc ở miền nam cũng giống như anh Trung Úy Pháo Binh Cộng Sản mà tôi đã gặp sau ngày 30 tháng 4 ở Sài Gòn. Tôi hỏi anh trung úy pháo binh Cộng Sản mà tôi tình cờ gặp ở Ngã Tư Bảy Hiền, “bây giờ anh thích gì nhất ?”, anh trả lời không suy nghĩ “tôi muốn về miền Bắc sống với mẹ tôi, ngày xưa tôi không có chọn lựa nào khác là phải vào Nam, bây giờ thì khác, tôi phải về thôi”. Chắc là anh ta đã về Bắc. Nhưng nếu anh thật sự về thì chắc là anh sẽ hối hận biết bao. Phải chi anh tiếp tục ở lại miền Nam thì bây giờ anh đã giàu sang, có ô tô, biệt thự, bây giờ biết đâu anh lại chẳng trở thành một anh triệu phú xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng thì tất cả những mỹ từ lý tưởng, hòa bình, tự do, độc lập, hạnh phúc, chỉ là những chiếc bánh vẽ, đều đã bị lừa gạt, bị nhân danh, đều là trò chơi của lịch sử không tim.
Tôi lặng lẽ nhìn Quốc một hồi lâu như muốn tìm bên trong chiếc áo vá màu đen kia có còn lại vết tích gì của những ước mơ thời niên thiếu hay không. Còn hay không, có lẽ không ai có thể biết và có lẽ không bao giờ Quốc sẽ trả lời. Tôi cũng đủ trí không để tự biết rằng không nên hỏi bởi vì hỏi là xúc phạm, là khơi lên một vết thương đang mưng mủ trong lòng của một thanh niên Việt Nam đang lỡ vận. Tôi chỉ biết mời nhau một điếu thuốc, nói vài câu chúc tụng rỗng tuếch rồi chia tay. Quốc cũng thế, không nói nhiều và cũng chẳng nhắc gì quá khứ, cúi đầu cầm cán xe kéo đi không ngoái đầu nhìn lại. Những hạt mưa Xuân hay những giọt nước mắt của Quốc ngày nào đang lăn nhẹ trên má tôi.
Từ giã Quốc tôi ghé thăm chùa Viên Giác, nơi đang giữ của tôi những bí mật lớn của đời mình và là nơi tôi cuộn tròn tuổi hoa niên dưới bóng cây đa già thân thuộc. Không mấy ai biết tôi từ đâu đến, cha mẹ tôi là ai và dĩ nhiên, ở một nơi mà sự sống đang đùa cùng cái chết thì cũng chẳng ai hiểu hay cần tìm hiểu tôi làm gì. Từ những ngày rất nhỏ tôi đã phải sống trong một nỗi ám ảnh triền miên về quá khứ và cả về tương lai của chính mình. Tôi biết Hội An lần đầu năm 1968, 13 tuổi và một dĩ vãng rất dài và với những vết thương không bao giờ lành được. Năm 1990, từ miền Bắc Mỹ xa xôi tôi viết một bài thơ để Nhớ Cây Đa Chùa Viên Giác.
Tôi chưa kịp trở về thăm Viên Giác
Mười hai năm bèo giạt bến sông đời
Cây đa cũ chắc đã già hơn trước
Biết có còn rụng lá xuống sân tôi
Đời lưu lạc tôi đi hoài không nghỉ
Để niềm đau chảy suốt những mùa thu
Thời thơ ấu cây đa già tri kỷ
Vẫn còn đây trong ký ức xa mù
Tôi khổ cực từ khi cha mất sớm
Nên bà con thân thuộc cũng xa dần
Khi tôi khóc, đa đau từng cuống lá
Khi tôi cười, xào xạt tiếng quen thân
Đa làm mẹ vỗ về tôi giấc ngủ
Đa làm cha che mát những trưa hè
Đa làm bạn quây quần khi rảnh rỗi
Đa làm người chơn thật chẳng khen chê
Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn
Chùa thanh tịnh chẳng dung hồn lữ thứ
Một chiều thu tôi lạy Phật ra đi
Bỏ lại tiếng kinh cầu vang khua sớm
Cây đa già đứng lặng khóc chia ly
Đường tôi qua đã không còn bóng mát
Ngày nhọc nhằn mưa lũ lúc đêm khuya
Đa ở lại âm thầm ru khúc hát
Ngậm ngùi rơi theo mỗi tiếng chuông chiều
Đa thân mến dẫu có vàng thương nhớ
Cũng xin đừng gục xuống dưới hiên tôi
Xin ráng đứng để chờ nghe tôi kể
Chuyện trầm luân của một kiếp con người
Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa Viên Giác
Nhặt mảnh đời rơi rớt ở quanh đây
Ôi thằng bé nghèo nàn xưa đã lớn
Đi làm người du thực ở phương Tây
Tôi viết nốt những bài thơ dang dở
Vá tình người rách nát thuở hoa niên
Đa sẽ hát bài đồng dao muôn thuở
Nhạc thu buồn nước mắt chảy trong đêm.
Chùa Viên Giác, nơi trú ẩn của một con chim non tránh bão kéo dài suốt 5 năm trời. Ngoại trừ một số ít bạn học, năm năm dài tôi sống và học trong sống thế giới hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngày 30 tháng 8 năm 1972, tôi từ giã cây đa già tri kỷ, mang khăn gói hành trang đi xuống cuộc đời. Sau lưng tôi cánh cửa tùng vừa khép lại.
Tôi trở về một lần nữa trước khi ra đi một nơi xa thật là xa, xa hơn cả trí tưởng tượng của tôi. Thầy tôi ngạc nhiên khi thấy tôi trở lại. Người nói như than thở “trong lúc mọi người đều bỏ chùa ra đi thì con trở lại.” Tôi bạch với thầy “con về thăm thầy nhưng mai con sẽ ra đi, đi xa hơn chuyến đi lần trước.” Thầy hiểu ý không hỏi thêm gì. Chúng tôi ngồi trong phòng tăng của thầy và nói chuyện suốt buổi chiều về đạo pháp trong hoàn cảnh trước mắt của đất nước. Chưa bao giờ tôi thấy trách nhiệm đối với đạo pháp và dân tộc đè nặng trên vai già của thầy tôi hơn những ngày nầy. Tôi muốn chia sẻ nhưng biết phận mình còn lo chưa nổi cho mình đừng nói gì là chuyện đạo chuyện đời. Tôi yêu đạo Phật vì Đức Phật không phải là đấng tự sanh nhưng là một con người như tất cả chúng ta. Đức Phật từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để đi vào cuộc đời khổ đau bằng một chiếc áo vàng và đôi chân đất. Nhiều nhà khoa học, kể cả Albert Enstein, đến với đạo Phật không phải vì đức Phật là đấng giác ngộ nhưng vì ngài là nhà đại khoa học, nhà đại giáo dục. Đạo Phật không ban cho con người cứu cánh nhưng giúp cho con người những phương tiện cần thiết để đạt tới cứu cánh an lạc cho chính mình.
Cây đa vẫn còn đó như chờ tôi trở lại, vẫn xào xạc chào đón bước chân tôi về thăm. Cây đa không bị đói như con người mà tôi có cảm tưởng cũng ốm hơn những năm trước. Đa không tuổi mà sao tôi thấy già hơn những năm trước rất nhiều. Đừng ngã xuống nghe đa, phải sống như tôi đã phải sống, phải vươn lên như tôi đã phải vươn lên, phải xào xạc một cách hồn nhiên như tôi đã từng ngâm những bài thơ đầu tiên trong những đêm hoa niên không ngủ được.
Tôi lại sẽ ra đi. Lần nầy thì xa lắm. Đừng hỏi tôi đi đâu vì chính tôi cũng không thể trả lời. Điều duy nhất mà tôi có thể trả lời được là có một ngày tôi sẽ về lại nơi nầy như chiếc lá đa trong sân chùa, dù có bay xa bao nhiêu thì vẫn có một ngày sẽ trở về với nguồn cội của mình. Nếu tôi không chết, chết trên biển cả mênh mông hay xứ người xa lạ, mà dù tôi có chết đi, thì hồn tôi cũng tìm về lại nơi nầy vì hạnh phúc đầu tiên và cuối cùng của tôi là ở đây, dưới bóng đa nầy.
Đa ơi, ta hẹn về thăm nhé
Dẫu ước mơ xưa đã tật nguyền
Lưng ta đời chém hàng trăm nhát
Còn đây nguyên vẹn một con tim.