Mảnh đất nào chôn khúc nhau tôi
Trần Trung Ðạo
Trong suốt mười bảy năm lưu lạc xứ người, tôi đã hàng nghìn đêm mơ một ngày trở lại, trở lại với Việt Nam và trở lại với quê hương Quảng Nam thân thiết của tôi. Vẫn còn đó trong tôi hình ảnh những ngôi trường thân thuộc Duy Xuyên, Nguyễn Duy Hiệu, Trần Quý Cáp, nơi tôi đã ngồi nôn nao nghe tiếng ve vọng về báo hiệu mùa hoa phượng nở. Vẫn còn đó trong tôi hình ảnh hai hàng tre nghiêng nghiêng soi bóng bên dòng sông Thu Bồn hiền hòa đang đổ ra hướng cửa Đại, hướng cửa sông Hàn. Vẫn còn đó trong tôi hình ảnh người dân xứ Quảng cần cù và khổ cực suốt bao mùa bão lụt, nắng mưa.
Quê hương tôi nghèo khổ quá. Một hạt lúa trồng được ở Trung Phước, Đức Dục, Điện Bàn công khó bằng trồng cả ký lúa ở Sa Đéc, Cần Thơ. Một trái bòn bon Đại Lộc quý bằng cả chục trái xoài, trái mít ở miền Tây. Nhiều khi tôi nghĩ câu “ngọt như bòn bon Đại Lộc” chẳng qua là bà con tôi nói để tự an ủi mình chứ bòn bon Đại Lộc làm sao so sánh với cây trái miền Tây. Và cũng vì khổ quá nên bà con xứ Quảng mới biết thương nhau hơn, biết tìm nhau và che chở hơn.
Trong những ngày ở Mỹ, tôi may mắn học được rất nhiều từ các chú bác anh chị văn nghệ, trong đó có rất đông là người gốc Quảng, đã cầm bút đi mở đường trong con đường sáng tác và cũng không quên ngoái đầu nhìn lại để chờ đợi tôi, thằng em nhỏ trong gia đình văn nghệ. Từ đó và cũng nhờ ở đó mà thơ văn tôi chập chững bước đi trong tình người và trong máu mủ di truyền từ tổ tiên xứ Quảng chúng tôi.
Từ nhỏ, tôi may mắn học những bài học về đặc tính anh hùng, nhân kiệt trong con người xứ Quảng và học cả từ những thất bại cay đắng của tổ tiên Quảng Nam chúng tôi đã phải chịu đựng. Càng học tôi càng cảm thấy kính trọng tổ tiên và thương cho quê hương nghèo khổ của tôi hơn.
Một lần trước 75, trên chuyến xe đò từ Sài Gòn về Quảng, tôi xin bác tài xế xe đò ráng chạy để đến ngã ba đi Nha Trang thì hãy dừng lại ngủ đêm. Bác hỏi tại sao không ngủ ở nơi khác mà phải năn nỉ bác ráng chạy đến Nha Trang, có ai bà con ở đó hay sao. Tôi đáp lời bác rằng tôi muốn luôn dịp đó để được đi thắp hương ở miếu thờ cụ Trần Quý Cáp. Bác tài xế nhìn tôi bằng đôi mắt ngạc nhiên. Bác không hứa điều gì nhưng một lúc sau, bác bỗng tăng tốc độ khá nhanh và đến ngã ba đường đi Nha Trang thì bác dừng xe lại nghỉ đêm.
Tôi mua một bó hương, vừa đi vừa hỏi thăm đường đến chân cầu ngoài ngã ba và mon men theo bờ dốc xuống miếu thờ cụ Trần. Tôi thắp nén hương lên bàn thờ cụ và lạy ba lạy. Trong mùi khói hương nghi ngút tôi nghe lòng dâng lên niềm xúc cảm sâu xa khi nghĩ đến bản án chém ngang lưng mà triều đình nhu nhược đã dành cho cụ. Dù không phải là con cháu xa gần gì với cụ Trần Quý Cáp, tôi vẫn cảm thấy rằng dòng máu đang chảy trong tôi đã bắt nguồn từ tinh hoa và tinh huyết của cụ và của tiền nhân xứ Quảng. Tôi thầm cầu nguyện hương linh cụ phò hộ cho dân tộc Việt Nam nói chung và xứ Quảng Nam “đất cày lên sỏi đá với xương khô” của chúng tôi sớm không còn chiến tranh, nghèo đói, hận thù.
Mấy chục năm sau, trong những đêm thao thức xứ người tôi vẫn thường mơ ngày về thắp nén hương trên miếu cụ Trần Quý Cáp, thăm lại bà con xứ Quảng. Tôi yêu những con người chơn chất hiền hòa như dòng sông Thu mênh mông đổ về biển cả, và tôi cũng yêu cả tính ngang tàng thẳng thắng của đồng bào tôi sừng sững như dải Trường Sơn.
Sáng hôm sau, khi xe sắp sửa lăn bánh, tôi nói vài lời cám ơn bác tài xế. Bác vui vẻ gật đầu và nói rằng bác cũng là người Quảng, nhà ở gần chợ Cồn. Bác lái xe cho hãng Phi Long tuyến đường Sài Gòn-Đà Nẵng cả chục năm nên nghe rất nhiều chuyện linh thiêng về ngôi miếu thờ cụ Trần Quý Cáp. Dân chúng trong vùng đồn rằng cụ Trần thường hiển linh trị bịnh cho dân chúng và có lần đã giúp một bà cụ mù mắt được sáng trở lại. Trong ánh mắt của bác tài xế không dấu được niềm hãnh diện được làm người dân xứ Quảng.
Bà cụ trong câu chuyện mà bác tài xế kể có thật sự sáng mắt hay không không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là ở chỗ lòng tin của dân chúng đã dành cho cụ. Niềm tin đó phát xuất từ lòng yêu nước mà ra. Niềm tin đó đã từng giúp Lý Thường Kiệt đánh bại hùng binh nhà Tống trên dòng sông Như Nguyệt, giúp cho đoàn quân của Quang Trung Hoàng Đế có thêm sức mạnh trên đường về giải phóng Thăng Long.
Mảnh đất đó, con người đó đã trở thành một thôi thúc không ngừng theo mỗi bước tôi đi trong quãng đời biệt xứ mà tôi đã có lần ghi lại trong bài thơ Bao Giờ Nhỉ Tôi Về Thăm Xứ Quảng:
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng
Mười năm dài mộ mẹ chẳng ai trông
Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong lòng
Đất có lạnh hơn mùa Đông Bắc Mỹ
Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
Thuở học trò tôi hay đứng ven sông
Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Điện
Còn chăng nhỉ những con đường kỷ niệm
Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
Tóc chưa xanh mà đã vội hoen màu
Thời ly loạn tìm nhau trong ký ức
Cho tôi ghé thăm trường Trần Quý Cáp
Những màu rêu gạch ngói cũ còn chăng
Bài thơ xưa còn đọng dấu bên thềm
Tôi vẫn viết nhưng thơ buồn hơn trước
Đường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau
Đình Cẩm Phô, Khu Khổng Miếu, Chùa Cầu
Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết
Cho tôi ghé bến xe đò Nam Phước
Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
Giờ chia tay sao chẳng nói năng gì
Nghìn năm để mây buồn vương trong mắt
Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
Đứng bên cầu Chợ Đụn nước trôi xuôi
Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
Hương ngây ngất tôi mộng làm thi sĩ
Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ
Trái tim tôi có một dòng máu đỏ
Sẽ một ngày chảy đến tận Câu Lâu
Nước sông Thu dù lụt lội đục ngầu
Nghe vẫn ngọt như bòn bon Đại Lộc
Bao giờ nhỉ tôi trở về Đà Nẵng
Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
Bến Bạch Đằng còn những chuyến đò ngang
Ngày hai buổi nối cầu qua An Hải
Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
Thả tơ tình trêu chọc đám con trai
Đường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
Sao quá ngắn trong những chiều chung bước
Mây có trắng trên đỉnh chùa Non Nước
Mưa có buồn giăng kín núi Tiên Sa
Về chưa em sương phủ xuống Sơn Chà
Còn chăng nhỉ dấu chân tình trên cát
Tôi một dạo hay ôm đàn đứng hát
Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước
Tôi đã bảo thơ tôi buồn hơn trước
Đời lưu vong chưa hẹn buổi quay về
Câu hỏi nầy chỉ hỏi để tôi nghe
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng.
Và cũng từ đó tôi viết nhiều về mẹ. Bởi vì tôi tin rằng không có một bà mẹ nào trên thế giới đã phải sống trong chịu đựng nhiều hơn bà mẹ Quảng Nam, bà mẹ Việt Nam. Ca ngợi bà mẹ Việt Nam, không chỉ ca ngợi tình thương của mẹ dành cho chúng con mà, hơn tất cả, ca ngợi sự hy sinh, sự chờ đợi, sự chịu đựng vô bờ bến của những bà mẹ Việt Nam.
Trong thơ tôi, có câu chuyện thật về một Bà Mẹ Điên” bỏ vùng Kinh Tế Mới về Sài Gòn tìm chỗ sống. Mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khổ. Mẹ bán tất cả những gì mẹ có thể bán kể cả máu của mình để mua sữa cho con. Cuối cùng, đứa con nhỏ cũng chết. Những đêm khuya nhớ lại tiếng khóc của con đói lả trên tay mẹ ngày nào, bà mẹ một mình ôm chiếc gối ra đứng hát như người điên trên vỉa hè Đồng Khởi.
Tôi có bà mẹ đã chết ngoài biển khơi trong cuộc hành trình bi thảm của những con chim Việt xa đàn. Mẹ gục xuống trên sàn ghe như thân chuối sau vườn nhà của mẹ năm xưa trong một đêm giông bão, đói khát tuyệt vọng. Những ngày còn ở trại Palawan, tôi nghe nhiều câu chuyện ăn thịt người khủng khiếp. Người ta kể rằng có chiếc ghe nọ chết máy trôi dạt năm sáu tuần trên biển, thực phẩm hết, nước uống hết, những người chưa chết bắt đầu nghĩ đến chuyện ăn thịt những người đang ngắc ngoải để sống. Một bà mẹ van xin những người còn sống: “Hãy đập chết tôi mà ăn nhưng xin đừng ăn thịt con tôi vì nó còn nhỏ quá, chỉ có một chút thịt mà thôi!” Không ai nỡ đập chết mẹ để ăn nhưng sau đó mẹ cũng chết vì đói khát trước khi ghe được vớt. Người ta ném xác mẹ vào biển khơi trước đôi mắt tròn xoe, khinh hoàng và ngơ ngác của con. Đời em từ đó là cuộc đời của một viên sỏi nhỏ:
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu
– Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho em
Còn viên kẹo thật to nầy …là phần Bé đấy
Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Đang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm
– Em đến từ Việt Nam
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Đông Hải mênh mông
Cho tất cả những câu hỏi khác
Mẹ em đâu?
– Ngủ ngoài biển cả
Em của em đâu?
– Sóng cuốn đi rồi
Chị của em đâu?
– Nghe chị thét trên mui
Ba em đâu?
Em lắc đầu không nói
– Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa
Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Đã sống sót sau sáu tuần trên biển
Họ kể lại em từ đâu không biết
Cha mẹ em đã chết đói trên tàu
Chị của em hải tặc bắt đi đâu
Sóng cuốn mất người em trai một tuổi
Kẻ sống sót trong sáu tuần trôi nổi
Đã cắt thịt mình lấy máu thắm môi em
Ôi những giọt máu Việt Nam
Linh diệu vô cùng
Nuôi sống em
Một người con gái Việt
Mai em lớn dù phương nào cách biệt
Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt Nam
Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm
Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại
– Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho em
Còn viên kẹo thật to nầy…là phần Bé đấy
Suốt tuần nay em vẫn ngồi
Một mình lẩm bẩm
Ngơ ngác nhìn ra phía biển xa xôi
Như thuở chờ Mẹ đi chợ về
– Thật trễ làm sao
Em tiếp tục thì thầm
Những câu nói vẩn vơ
Mẹ ngày xưa vẫn thường hay trách móc
Em cúi đầu nhưng không ai vuốt tóc
Biển ngậm ngùi mang thương nhớ ra đi
Mai nầy ai hỏi Bé yêu chi
Em sẽ nói là em yêu biển
Nơi cha chết không tiếng kèn đưa tiễn
Nơi tiếng chị rên
Nghe buốt cả thịt da
Nơi Mẹ chẳng về dù đêm tối đi qua
Nơi em trai ở lại
Với muôn trùng sóng vỗ
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.
(Em Bé Việt Nam và ViênSỏi,
thơ TrầnTrung Đạo)
Và tôi, như đứa con của mẹ còn sống sót, mãi mãi ám ảnh bởi hình ảnh cuộc hải hành bi tráng đó:
Cho anh hôn xác mẹ nổi bềnh bồng
Để nhớ lại ngày nào anh ra biển
Tôi mang vào thơ hình ảnh đau thương của những bà mẹ Việt Nam thời chiến tranh đang chen sống giữa một quê hương đày đọa của thời bình.
Như chúng ta đã thấy, chiến tranh đã chấm dứt từ sau 1975 nhưng hòa bình thật sự vẫn chưa đến. Tiếng đại bác đêm đêm không còn dội vào thành phố nhưng người phu quét đường vẫn còn dừng chổi để lắng nghe, lắng nghe tiếng rên của những bà mẹ, lắng nghe tiếng rên của đám em thơ vừa chạy về từ vùng Kinh Tế Mới. Nếu ai ở lại Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn năm 1978 mới thấy cái tai họa do chiếc bẫy thống nhất và hòa bình gây ra còn tàn khốc hơn cả chiến tranh. Sài Gòn 78, tôi có bà mẹ nghèo phải thức khuya dậy sớm chăm nom quầy thuốc lá ven đường để nuôi một bầy con đói khổ:
Quầy thuốc lá ven đường em đứng đấy
Mẹ đã ngồi nghe muỗi vắt đêm khuya
Đời cô đơn trong nắng sớm mưa chiều
Chiếc áo bạc mang hàng trăm chỗ vá
Trong những ngày ở Mỹ, tôi có người mẹ ôm những tập thơ tôi vừa in đi bán dạo những quán sách San Jose như bán chút tình thương còn lại trong chuỗi ngày cuối của đời mình.
Lần đầu tiên tôi ra mắt sách ở San Jose chỉ có ba bốn chục người đến dự, nhưng trong đó có một bà mẹ 75 tuổi đã đi xe buýt suốt 2 giờ mới đến nơi tổ chức để nghe đọc thơ tôi. Nghe xong mẹ còn phụ các bạn tôi cặm cụi đi bán từng cuốn sách. Dĩ nhiên chẳng ai mua thơ của một kẻ làm thơ không tên không tuổi như tôi trong thời buổi những đau thương đã trở thành quá khứ và vật chất mới là điều thực tế. Thương mẹ vất vả nên tôi đã viết tặng mẹ bài thơ Mẹ Là Thơ Nước Việt Sẽ Hồi Sinh:
Mẹ ngồi suốt hai giờ trên xe buýt
Chỉ mong đến tận nơi để nghe đọc thơ con
Những vần thơ chan chứa vạn nỗi buồn
Những vần thơ chảy ra từ tim mẹ.
Bảy mươi lăm năm
Cuộc đời bao dâu bể
Mẹ vẫn còn nguyên vẹn một tình thương
Bụi thời gian không lấp kín tủi buồn
Đời đất khách chẳng làm phai quá khứ
Lòng mẹ vẫn nương về cố xứ
Nhìn trời xanh hoài vọng phút thanh bình.
Mẹ chờ lâu không?
Như chờ ngày đất nước được hồi sinh
Vườn trầu cũ, hàng cau xưa ai bón
Mẹ để lại quê hương, láng giềng, hàng xóm
Mồ mả tổ tiên, thân thuộc xa gần.
Mẹ buồn lắm không?
Một đời mẹ long đong
Bảy mươi lăm tuổi, ngọn đèn dầu sắp cạn
Lỗi là ở chúng con
Những con chim trúng đạn
Mang vết thương quằn quại bốn phương trời
Thơ con buồn hay máu chúng con rơi.
Mẹ đi xe buýt suốt hai giờ
Chỉ mong đến tận nơi
Để ghe đọc thơ con
Những vần thơ vốn buồn hơn nước mắt
Con biết lòng mẹ đau mà không khóc
Như chúng con vẫn gượng cười đi giữa điêu linh.
Có giống dân nào như một giống chim
Bay suốt bốn ngàn năm chưa dừng lại
Như đời mẹ mang nỗi buồn đi mãi
Bảy mươi lăm năm chưa một chỗ quay về
Mẹ ghé từng quán sách ở San Jose
Để rao bán những bài thơ con viết
Như bán tình thương mẹ chảy hoài không hết
Bán cả niềm đau cho nhân loại vô tình.
Có ai cần đọc thơ con
Một thi sĩ vô danh
Viết những chuyện chẳng còn ai muốn nhắc
Câu chuyện Việt Nam mịt mờ xa lắc
Mười tám năm bao nước chảy qua cầu
Xin mẹ đừng buồn dù chẳng ai mua
Hồn thơ đó nghìn năm sau vẫn đọng.
Nhờ có mẹ thơ con còn hy vọng
Mẹ là thơ nên nước Việt sẽ hồi sinh.
Tôi có người mẹ ra đi với tôi và cũng có người mẹ đang chờ bên kia biển. Bà mẹ Hòa Hưng, quận 10 Sài Gòn, bao năm qua đang chờ đợi tôi về. Mẹ đã đánh thức tôi dậy trong đêm đông ở xứ người bằng tiếng điện thoại buồn như tiếng mưa rơi trên căn nhà tôn nghèo nàn ở gần chợ Hòa Hưng, thảng thốt như tiếng rên của mẹ vọng qua từ nửa vòng trái đất. Khi vừa gác phone, tôi ngồi xuống viết bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Tôi cũng còn có những người mẹ không bằng xương bằng thịt mà chỉ là cây, như cây đa chùa Viên Giác ở Hội An. Cây đa già đã ru tuổi thơ tôi trong một điệu kinh buồn đầy đau xót.
Bao nhiêu đêm tôi nằm dưới gốc đa già nghe lá đổ xuống sân tôi và miên man nghĩ về một điều mà cha tôi hằng mơ ước về tôi: có một mảnh bằng đại học. Ước mơ của một người thợ dệt nghèo nàn ở xóm dệt Duy Xuyên, tưởng khó hơn tìm kim đáy biển. Dù sao ba mươi năm sau, nói như nhà văn Duyên Anh, giấc mơ của một “đại dương trong lòng con ốc nhỏ” kia cũng đã thành sự thật.
Đa dạy tôi làm người chân thật, đa dạy tôi chịu đựng, đa dạy tôi vươn lên trong cuộc đời vẫn còn đầy những gian nan trắc trở. Tôi đã vươn lên, không to lớn như vóc dáng tôi từng thêu dệt, không hoàn hảo như ước mơ tôi đan ở tuổi thiếu thời nhưng cũng không làm đa buồn trách. Tôi chưa bỏ quên mơ ước của mình, tôi vẫn cố làm một người chân thật, một người yêu thương lấy cuộc đời nầy.
Bốn mươi năm trên quãng đường trần
Thương từng hạt bụi bám đôi chân
Đời xô ta gục, buồn, không trách
Vẫn đứng lên, cười với thế nhân
(Sinh Nhật 40, thơ Trần Trung Đạo)
Tôi vẫn hằng mơ ngày trở lại để được ngồi một mình dưới bóng mát cây đa như ngồi bên người mẹ già nua trong buổi xế chiều, để nghe tuổi hoa niên trở về thổn thức. Đa ơi đừng gục xuống, hãy chờ tôi trở lại. Tôi sẽ kể đa nghe chuyện đời tôi qua mấy độ thăng trầm nghiệt ngã.
Và đặc biệt tôi đã viết rất nhiều về một bà mẹ Quảng Nam, người đã vĩnh viễn ở lại với hàng tre Nghi Hạ, ở lại bên những đồi sim tím Quế Sơn. Bà mẹ Quảng Nam của tôi đã chết từ ngày tôi còn quá nhỏ. Tôi không biết gì nhiều về mẹ Quảng Nam ngoài những chuyện do cha tôi kể lại, tôi không biết gì nhiều về Nghi Hạ, tôi không biết gì nhiều về Quế Sơn, tôi không biết gì nhiều về mảnh đất miền núi cao của quê hương Quảng Nam nghèo khổ của tôi, mảnh đất đã từng chôn khúc nhau tôi.
Cha tôi kể lại rằng ở đó có hàng tre, cha tôi gọi là hàng tre Nghi Hạ. Dưới bóng mát của hàng tre ấy ông và Mẹ Quảng Nam đã gặp nhau, đã yêu nhau và đã cưới nhau. Họ cùng nhau dựng lên căn nhà tranh, đúc lò ươm tơ, đóng khung dệt lụa và xây một tình yêu chân thành, mộc mạc bên nhau. Đêm tân hôn của họ trong thời buổi tản cư không có rượu nồng, pháo đỏ, không nhẫn cưới và vắng đi cả những lời chúc tụng của cha mẹ, của bà con thân thuộc.
Họ chúc nhau bằng ly nước nấu từ lá vối. Tôi chưa bao giờ được uống một ly nước vối nhưng nghe bà con nói nước vối nhà nghèo thường uống thay cho nước chè xanh, nước vối hơi chua và hơi chát. Dù sao, ở đó, trong một đêm huyền diệu của đất trời, những giọt máu của họ đã hòa vào nhau thành một, đã quyện vào nhau thành một, đã đan chặt lấy nhau, đã ôm ấp nhau để tái tạo nên tôi, tái tạo nên một kiếp con người.
Cha tôi kể rằng ở đó có rừng sim tím. Không biết ông có thường hái tặng mẹ Quảng Nam khi mùa hoa sim nở. Một người có tâm hồn đầy thơ như cha tôi thế nào mà chẳng có. Thế nào ông chẳng hái một bó hoa sim cắm lên chiếc lọ bằng đất trên đường đi làm về và nhẹ nhàng đặt lên chiếc bàn bằng gỗ mít của mẹ. Thế nào ông chẳng có khi dắt mẹ đi dạo trên đồi sim trong những buổi chiều tà khi mặt trời rực đỏ dưới chân dải Trường Sơn hùng vĩ, cùng nhau thêu dệt ước mơ và niềm hy vọng ở đứa con sắp chào đời của họ.
Cha tôi kể rằng ông rất mê hát bội và thuộc làu làu mọi tuồng hát bội. Trong những đêm thanh vắng ông cũng hát cho mẹ tôi nghe những đoạn Nam Ai mùi mẫn mà các anh kép, cô đào thần tượng của ông như Phó Phẩm, cô Dần, cô Cơ thường diễn trong mấy vở tuồng tàu.
Ông thường nhìn vào khoảng không gian xa xăm trong ký ức, ở đó có hai vợ chồng trẻ và một đứa con mới chào đời. Ở đó có hạnh phúc đang tràn đầy nhưng đau khổ tột cùng cũng đang chờ đón họ. Ngày tôi mới ra đời cũng là ngày mẹ tôi ngã bệnh. Giữa một làng quê hẻo lánh như làng Nghi Hạ, sự sống còn của một con người hoàn toàn tùy thuộc vào số mệnh. Số mệnh nghiệt ngã đã cướp đi của đời tôi vầng trăng tròn tháng bảy, cướp đi của đời tôi một giòng sữa mẹ hiền hòa mà mọi đứa bé sơ sinh cần phải có.
Cha tôi kể rằng ở đó có con đường. Con đường chạy dài từ ngã ba Hương An lên cầu chợ Đụn, qua Sơn Khánh, Sơn Thượng và cứ thế lên tận dải Trường Sơn trùng điệp. Con đường đó cha mẹ tôi từ Duy Xuyên chạy giặc và đã gặp nhau. Con đường quê hương đất đỏ và đầy ổ gà đó, sau nầy, đã trở nên chứng tích cho cuộc chiến tương tàn, đẫm máu. Chiến tranh đã tàn phá quê hương tôi, đã chia cắt gia đình tôi và làm tan nát phần đời đẹp nhất của tôi.
Đến bao giờ những chiếc áo ngoại lai vong bản mới được ném đi, trả lại tình thương và sức sống cho da thịt ốm o gầy mòn của mẹ Việt Nam?
Cha tôi kể rằng ở đó có những con người mà giọng nói rất cực kỳ khó nghe thường là trò cười cho những người thành phố như “đi Sơn Lểnh, bán nồi đếch” (đi Sơn Lãnh, bán nồi đất). Có lần ở Sài Gòn, nghe một anh hề nhái tiếng Quế Sơn trong một vở kịch tôi cảm thấy như cha mẹ mình bị xúc phạm, chính mình bị xúc phạm. Tôi đứng dậy bỏ ra ngay. Bỏ đi không phải vì giận anh hề mà chỉ cảm thấy đau lòng khi trong trí nhớ mơ hồ của tuổi thơ tôi lại hiện ra những con người Quế Sơn khốn khổ. Tiếng Quế Sơn của tôi như thế đó, người Quế Sơn tôi là thế đó, núi đồi hoang vu cách trở đã tạo cho bà con Quế Sơn một giọng nói khó nghe nhưng tâm hồn họ vẫn mang đầy đủ đặc tính Quảng Nam hiền hòa và cương trực. Quế Sơn trong những năm 1960 vẫn còn trong một sinh hoạt kinh tế thủ công lùi sau kỹ thuật hiện đại nhiều thế kỷ, với những chiếc cối bằng đá, khung cửi dệt bằng tay, những lò nước sôi đun nóng từng con kén. Trong thời kỳ chiến tranh, Quế Sơn là nơi chịu đựng nhiều thiệt thòi và mất mát nhiều hơn hết. Hàng ngàn đồng bào tôi đã trở thành “liệt sĩ” cho một ý thức hệ mà họ, với tâm hồn mộc mạc bẩm sinh, không thể nào tưởng tượng ra nổi.
Tháng Năm năm ấy, trên con đường đất đỏ Quế Sơn, cha tôi, tay ẵm tôi, chầm chậm bước theo sau chiếc quan tài làm bằng tre ép lại của mẹ Quảng Nam. Nắm đất nầy, nơi đó không lâu đã chôn khúc nhau tôi, một lần nữa chôn dấu đi người đàn bà yêu dấu nhất đời tôi. Tháng Năm ở Quế Sơn cơn mưa rừng vừa đổ xuống. Trời đang mưa hay đang khóc thay tôi.
Trời tháng năm năm ấy
Mưa bỗng rơi nhiều hơn
Bên mộ vàng mới đắp
Hai bóng người cô đơn.
(Cành Hoa Trắng, thơ Trần Trung Đạo)
Cha tôi kể mà không khóc. Nước mắt chẳng còn để chảy trên đôi má già nua của ông nữa.
Tiếng mẹ cười đã tắt từ hôm đó. Trong căn nhà tranh ở Quế Sơn chỉ còn lại giọng Nam Ai thê thảm của cha tôi, vọng lại trong cô đơn, như tiếng con nai cha gào thét giữa núi rừng Quế Sơn quạnh vắng. Và không lâu sau đó cha tôi từ bỏ căn nhà tranh vách đất ở làng Nghi Hạ, ẵm tôi về quê nội Duy Xuyên. Tôi ra đi, giã từ Nghi Hạ, hành trang của tôi là một tuổi sơ sinh bất hạnh, một tuổi sơ sinh đầy nước mắt. Tôi về lại vùng đất thánh nầy chỉ một lần vào năm tôi lên sáu tuổi.
Cha tôi đưa tôi về lại Quế Sơn, qua cầu Chợ Đụn nước xấp xỉ bàn chân, ngồi trên chiếc xe đò già nua chạy dọc đường đi Sơn Khánh, nhìn đồi sim bát ngát chạy dài vào chân núi lòng cảm động biết bao nhiêu khi nghĩ về người mẹ Quảng Nam thân yêu đã khuất của mình. Mẹ tội nghiệp biết bao. Mẹ có biết con của mẹ đã hàng nghìn đêm ngồi tưởng tượng ra bàn tay của mẹ, tưởng tượng ra áng mây Tu La che mát cuộc đời bất hạnh của con, đã hàng nghìn đêm tưởng tượng ra khuôn mặt dịu hiền của mẹ đang nhìn xuống trần gian đầy lửa đỏ mà con đang ngụp lặn.