hiên nhà cũ và thơ tình Luân Hoán

Nguyễn Nam An

Lúc đó đâu chừng lớp nhất tôi thuộc bài Nhớ Rừng của Thế Lữ. Vào mùa thi lục cá nguyệt, thầy Quyền, Nguyễn Phú Quyền cho học trò đọc Học Thuộc Lòng hay hát. Cả hai tôi không chọn mục nào mà đọc thơ. Tôi đọc bài thơ dài thoòng nói trên. Thầy khen. Cho tám điểm! Mấy thằng khác đọc bài có thuộc mấy cũng bảy điểm là cùng. Khoái thật. Thừa thắng xông lên từ đó tôi thích thơ.
Chồng chị họ tôi ở Không Quân, thi tú tài, cần dẫn chứng về thơ mới. Anh ấy về kể lại đám em bà con nghe chơi. Trong đó có tôi, cứ tròn xoe mắt nghe “anh vò đầu vỗ trán rồi làm luôn thơ” mới! Thơ của mình. Mấy ông thi sĩ thật đi chỗ khác chơi! Khóa ấy anh tôi trượt vỏ chuối. Trượt là phải. Thầy giám khảo chấm bài mệt, bực mình, lại đọc thơ không phải của một trong những ông thi sĩ thời tiền chiến thì câu đó được vài điểm cũng may. Những ngày đầu của tôi với thơ vậy đó.
Khi học bên Phan Chu Trinh, đọc được bài thơ Tình Qua Lộng Ngọc của Hạ Quốc Huy viết cho cô hàng cà phê, mấy thằng khoái quá lò dò tìm đến quán Lộng Ngọc đó để ngó… Bên ngoài này đường Phan Đình Phùng nhìn vào quán mờ mờ ảo ảo. Thơ ở đâu cà? Chẳng biết.
Nhưng ở Phan Chu Trinh thì có nhiều “thơ”. Mấy chị mà anh Luân Hoán nhắc đến trong bài lục bát: “một đời mê những mỹ danh/Thanh Thảo, Kiều Phúc, Kim Anh, Bích Đào/Phương Lan, Mộng Thúy, Lạc Giao/Bích Hường, Phước Khánh, Hồng Đào, Thái Thu/Huỳnh Thi, Phước Hạnh, Quỳnh Cư/Duyệt lai, Châu Yến Loan, Từ Thoại Chi…/mê tên người để làm gì?/Thu Liên vẫn lạ Hồ Hồng vẫn xa/hóa ra là để ba hoa/có chăng chữ nghĩa đậm đà sắc hương?/quý thay thuở bất bình thường/ước chi tiếp tục khác thường hơn xưa”.
Mấy anh mấy chị làm tờ Trả Lại Tuổi Trẻ “chiến” quá trời dầu báo quay ronéo. Còn học trò mà Trần Ngọc Văn(?) dám in thơ. Đi ngang trường thấy thông báo buổi ra mắt thơ của anh này bạn tôi phục. Lúc đó anh Luân Hoán đã vào “nơi gió cát”. Anh đi tác chiến, Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Thời gian này tôi đọc được thơ anh trong tập Lục Bát Ca của Vĩnh Điện. Chịu quá! Giờ nghe nhắc đến Luân Hoán là nhớ bài lục bát đầu tiên đọc được thuở mười mấy đã làm mình thích thơ thêm. Không phải mình tôi mà thêm vài thằng nữa trong lớp, như Nhân ròm Nguyễn Văn Nhân, và vài tên khác mượn thơ thi sĩ viết thơ tình: “Tóc xưa thôi bỏ đuôi gà/Môi xưa thôi bỏ mặn mà tay che/Mắt cười còn biếc ngọn tre/Lòng ai thôi cũng vàng hoe nắng chiều…” Dễ nhớ không Sầu Biếc. Hình ảnh và ngôn ngữ quá gần nhưng đâu phải ai cũng đưa vào thơ được vậy. Luân Hoán viết như nói. Thi sĩ làm thơ dễ dàng như sống và thở nhưng thơ thật là thơ. “Trong tay đầy nỗi tiêu điều/Choàng vai nghe lạc niềm yêu thương người/Lời sầu dài biết bao nguôi/Ai vun quén để ngậm ngùi lòng nhau/Xin trời một thoáng mưa ngâu/Vườn xanh lá chuối che đầu trao hôn/Chút hơi phù phiếm trong hồn/Dâng làm kỷ niệm héo hon một đời/Người về sầu lẫn trong tôi/Em về sầu lẫn trong lời thơ bay…”

Đó là Luân Hoán thuở còn đi học, rất trẻ như trong hình chụp ở hội trường trường trung học Phan Chu Trinh “sau giờ đọc thơ Luân Hoán và Vĩnh Điện trình bày Lục Bát Ca”. Trẻ nhưng thơ thuở ấy đã bay bổng ngoài Trung và Sài Gòn trong những tạp chí văn học sáng giá của đất nước. Cả Luân Hoán bây giờ, “tiếp tục khác thường hơn xưa” khi: “đi giang hồ vặc trở về/nghe Đà Nẵng gọi bốn bề Thùy Trâm”. Đọc thấy gần gủi quá dầu tôi lớn lên sau anh mười mấy năm và không được giống chút ít “…thuở bất bình thường” của anh viết trong thơ chút nào.
Nhớ lại tháng ngày năm 1973, làm được những bài thơ khi xa nhà, tôi đem cất không dám cho ai đọc. Sau này đọc lại mới nhận ra rằng làm thơ lục bát dễ… dở! Nhưng sao đọc thơ sáu tám, thơ năm chữ của Luân Hoán, tôi có cảm tưởng anh viết rất dễ dàng (như thơ tôi được đọc đã dễ dàng đi vào hồn người, nằm đó!): “em mê thơ, chẳng tò mò?/hay là em chỉ giả đò vậy thôi?/chỉ cần một chiếc lá rơi/hình như em đã thả đời bay theo”.
Lúc đó tên bạn người Hội An hay nhún vai bất cần đời và đọc thơ Quang Dũng. Có lúc hắn kể về những sinh hoạt văn nghệ ở Quảng Nam. Trong câu chuyện, tình cờ nhắc đến Luân Hoán và thi tập “Nén Hương Cho Bàn Chân Trái”. Nhờ hắn tôi được tin anh Luân Hoán bị thương giải ngũ. Trễ cũng vài năm!
Suốt thời gian ở Đà Nẵng, tôi chỉ biết anh qua thơ. Lớn lên, rời thành phố rồi lưu lạc, những ngày đi học lại ở Mỹ lại được đọc thơ Luân Hoán qua tạp chí Nhân Văn. Cũng chưa có dịp gặp anh khi Nhân Văn in “Ngơ Ngác Cõi Người”. Tưởng Năng Tiến nhắc đến anh nhiều lần trong những buổi “tao ngộ nhậu” nhưng anh ở xa quá. Sau này đọc được bài thơ “Khiêng Nước” buồn buồn, tuổi nhỏ tôi chạy ngược về khi nao nao thấy lại bóng dáng mình đâu đó. Những điều anh viết quá gần gủi: “Một cái thùng con con/Một đoạn tre nho nhỏ/Chị khiêng chịu nặng hơn/Lâu lâu hơi cau có/Em đi trước run run/Đòn nghiêng vì vai thấp/Dốc đá vấp luôn luôn/Thùng va vào sau gót…” và đi theo đến hôm nay.
Luân Hoán vẫn “tiếp tục khác thường hơn xưa”. Anh còn làm thơ, thơ tình thuở xứ người:

“đèn xanh, tôi quẹo theo đời
dấu hoa đã lạc chân trời còn thơm”

“Gởi tặng thiếu nữ của mọi thời đại” trong “Em và Thơ”:

“em yêu đâu chỉ làm thơ
vì em đâu chỉ vu vơ qua đường
em là tất cả nguồn hương
nằm trong những đốt xương sườn thi nhân”

“em đi tay đánh mượt mà
làm bao nhiêu bụi tà tà bay theo
thơ đời vốn rất trong veo
bỗng dưng trôi nổi bọt bèo nhớ nhung”

“trời sinh em, trời sinh thơ
nếu không chẳng biết phải thờ em đâu
trái tim dù rất là sâu
chắc gì em được ở lâu đời đời”

hay một mai đó về lại “Đà Nẵng, 20..(?)” cũng vẫn rất tình:

“và tôi nghiêm chỉnh gặp tôi
gặp luôn em giữa đọt cười chớm xanh”

Có lẽ đây là niềm vui nhất của anh, anh Luân Hoán.

Nguyễn Nam An
17 tháng 6, 04

 

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button