Hai Người Cộng Sản Trong Gia Ðình Tôi

Trà Bồng

Gia đình, theo một nghĩa rộng, không nhất thiết là những người cùng cha cùng mẹ. Anh Ðắc rơi vào trường hợp này. Ba mẹ tôi không phải là người sinh ra anh. Ở nhà nói anh là con nuôi. Nhà có hơn mười người con mà nhận con nuôi thì chắc chắn không phải vì lý do hiếm muộn. Anh đã là một thành viên trong nhà từ lâu, mặc dù anh không mang họ của ba tôi. Anh có vị trí hẳn hoi, ai là anh là chị, đứa nào là em, rõ ràng. Anh đã chứng kiến sự thịnh suy (và chưa bao giờ thịnh trở lại) của gia đình, và hình như cả sự ra đời của hầu hết các em trai em gái.

Từ lúc biết “dựa cột mà nghe” tôi chỉ được nghe tên anh vài lần, và chỉ có thế. Các chi tiết khác thì có “dựa cột” giỏi mấy cũng không được nghe, mà phải “ra chỗ khác chơi” ngay lập tức. Cho tới lúc ấy tôi không nhớ đã thấy anh lần nào.

Trẻ con đứa nào cũng có cách tìm ra những thứ mà chúng biết là người lớn đã giấu chúng. Cuối cùng tôi cũng tìm ra: Anh Ðắc đã đi “tập kết”. Nó có nghĩa gì, ở đâu, bao lâu, làm gì, chừng nào về, và tại sao lại giấu kỹ thế thì chỉ có người lớn phải lo. Tôi tiếp tục sống với thế giới của trẻ con ở đồng quê của mình.

Cái thế giới mà có nhiều người thi vị hoá thành một thế giới thần tiên đó, thì cũng có người cho là nó chán phèo. Theo tôi nhớ thì nó không thần tiên và cũng chẳng chán phèo. Nó chỉ bình yên thôi.

Nhưng ngay cả cái bình yên khiêm tốn và rón rén đó cũng không kéo dài được bao lâu. Tiếng đêm không chỉ là những tiếng ếch nhái, tiếng dế kêu, tiếng chó sủa, tiếng ru con, tiếng khóc nhè của những em bé khó ngũ trong đêm hè, tiếng mẹ ru con hay tiếng càu nhàu của những người cha bị phá giấc. Tiếng đêm bây giờ còn thêm những âm thanh lạ. “Con gì kêu vậy ba ?” “Cà nông chứ con gì!” “Cà nông là cái gì vậy ba ?” “Im đi!”… Tưởng tượng ra đứa bé nào chắc cũng hỏi như vậy, và người lớn nào trong khung cảnh đó cũng gắt lên như thế.

Thời gian bám gấu áo mẹ mà không biết…mẹ gì hết đó của tôi kéo dài không được bao lâu. Mẹ tôi mất, hình như trong khoảng thời gian này.

Trong nhà bắt đầu xuất hiện những bao nhỏ dồn đầy cát, chất đầy thành hàng vây quanh góc nhà. Tiếng đêm bây giờ thêm những tràng súng máy nổ dòn như rang bắp. Khi dồn dập, khi thưa thớt, khi xa xôi, khi gần xịt. Cả tiếng loa thiếc, tiếng chân chạy huỳnh huỵch… Thế rồi mỗi chiều ba tôi và các anh lớn phải đi ngủ nhờ nhà các chú bên chợ, cách một con sông. Sáng lại về, chiều tối lại đi. Ba tôi và nhiều người đàn ông con trai trong làng phải làm vậy vì có những người tối tối lại về, và tờ mờ sáng lại đi. “Họ”, như cách trong nhà hay dùng để ám chỉ, hay bắt thanh niên đi biệt tích, không biết đi đâu. Ai cũng sợ “họ”.

Cuối cùng thì cả gia đình phải dọn hẳn sang chợ, để lại mẹ tôi yên nghỉ trong vườn, một mình, và căn nhà bỏ không. Sân chơi của tôi không còn là khu vườn đất thịt mềm mại mát chân trần, giữa những hàng dừa cao vút và những luống khoai thẳng tắp, hay cây mận hồng giữa sân, hay cây mận trắng bên cạnh giếng, hay đám mía lau xào xạc trong gió. Sân chơi bây giờ là bãi đất phía sau căn phố thuê bên chợ, ngập nước suốt mùa mưa, và đầy rác vào mùa nắng. Phía trước thì đầy xe cộ, và ồn như cái chợ.

Nhà thuê bên chợ chỉ cách nhà cũ hai khoảng đi bộ và một cây cầu. Vẫn con sông đó, dòng nước đó, nay tắm bờ bên này có thể nhìn rõ nhà tôi bờ bên kia. Gần vậy nhưng suốt mấy năm không ai dám về.

Chị tôi, rồi tới ba tôi là những người đầu tiên về lại nhà cũ. Về luôn trong cùng một ngày. Nhưng không phải để ở, mà để an nghỉ giấc nghìn đời, cùng với mẹ tôi.

Cuộc chiến vẫn tiếp diễn và những người chưa chết vẫn tiếp tục sống. Các anh lớn đã vào quân ngũ, đóng tận Sàigòn. Các chị thì lấy chồng và buôn bán tại chợ. Một ngày kia lại nghe các chị lớn thì thầm với nhau: “Ðắc nó về rồi”. Về đây không phải là về nhà, mà là về đâu đó trên núi. Thì ra anh đã tập kết ra Bắc, nay về Nam. Thế mà cũng gọi là về, nghe nó gần gụi làm sao.

Bạn hàng buôn bán của các chị thì đủ hạng người, đến từ khắp các địa phương. Có ai đó trong số bạn hàng từ trên núi xuống trao cho chị lá thư của anh Ðắc. Bấy giờ tôi đã biết việc liên lạc như thế trong thời chiến có thể bị tù. Và sau này tôi cũng được biết anh Ðắc còn liều cả mạng sống mình trong những lần liên lạc như vậy.

Nghe nói anh rất đau buồn khi biết tin ba và chị tôi đã mất. Ba và chị tôi, và gần chục người cùng chuyến xe đã chết vì một quả mìn do phe của anh đặt trên quốc lộ số 1. Chuyện này xảy ra hàng ngày, lặp đi lặp lại trong suốt chiều dài cuộc chiến, trên cùng một đoạn đường. Ngày nào cũng có người chết hoặc bị thương vì xe cán phải mìn. Hầu hết là những người dân đi làm ăn mua bán theo chuyến xe sớm. Ba và chị tôi cũng đi làm chuyến xe sớm, hàng tuần. Ngày nào cũng thấy xe cứu thương hay võng khiêng người hối hả chạy vào bệnh xá phía bên kia đường.

Ba và chị tôi không được may mắn như vậy, phải về thẳng nhà, không được vào bệnh viện. Người chôn mìn đã “hoàn thành tốt” nhiệm vụ của họ. Hành khách trên xe chết gần hết, chết ngay tại chổ, chết tươi, chết không kịp tức tưởi. Chiếc xe đò tan xác. Ba và chị tôi thì may mắn hơn, xác còn nguyên vẹn, và chỉ còn có thế: những cái xác.

Các toán chuyên viên rà mìn của quân đội xem ra không thể nào dò hết từng tấc của đoạn đường gần 20 cây số. Hay là họ đã không “hoàn thành tốt” nhiệm vụ của họ? Ðêm tối đen như mực, hàng chục cây số đường quê, ai biết “các ông bên kia” mò về chôn mìn ở đoạn nào!

Cuộc chiến vẫn tiếp diễn, những người chưa chết vẫn tiếp tục sống và mọi người đều tìm phương tiện để xa lánh nó. Anh Lộ, người anh “thế phụ” quyết định mang các em còn độc thân vào Sàigòn.

Nhưng chiến cuộc cũng đuổi kịp chúng tôi, vào tận Sàigòn. Rồi kết thúc.

“Người con trai duy nhất còn lại trong gia đình có các anh đang tại ngũ” bổng nhiên trở thành người con trai duy nhất còn lại trong gia đình không phải đi… “cải tạo”. Tôi ở nhà, các anh đi mất biệt. Mất biệt thật sự, không ai biết các anh bị đưa đi đâu. Hàng trăm ngàn gia đình chợt bặt tin người thân. Không ai biết, không ai cho biết, và cái khủng khiếp nhất là không ai có quyền hỏi.

Rồi nhà nhận được thư các anh, được gởi quà, được thăm nuôi… Nhưng cái vòng lẩn quẩn trông giấy thăm nuôi, đi thăm nuôi, nhìn nhau ngao ngán rồi về trông giấy thăm nuôi này không biết tới chừng nào mới chấm dứt.

Chợt có người được về vì họ có chuyên môn. Nhưng anh Lộ không có chuyên môn dân sự nào cả, làm sao được về? Lại thêm lác đác người về nhờ có thân nhân gia đình cách mạng bảo lãnh. Nhà tôi không có người “nhảy núi”, lấy ai bảo lãnh !

Lúc ấy anh Ðắc đã “về thành” và cũng vừa liên lạc vào Sàigòn. Anh tỏ ý sẵn sàng làm việc đó. Tôi về lại miền Trung để xin anh cái giấy bảo lãnh cho anh Lộ, và gặp anh Ðắc lần đầu. Các chị nói là anh Ðắc không thay đổi gì cả, chỉ gầy ốm và già đi thôi, vẫn lời ít nhưng lòng thì nhiều.

Lời anh thì có ít thật. Gặp nhau lần đầu mà trong suốt bữa cơm tối anh chẳng nói cho tôi nghe chuyện gì hay ho cả, toàn những chuyện vô thưởng vô phạt. Còn tôi thì vẫn chưa nói gì được chuyện giấy bảo lãnh. Ăn cơm xong thì anh Ðắc bảo cần ra ngoài một chút, rồi dắt xe đạp biến mất vào đêm tối, chẳng biết đi đâu. Tôi ngồi nhà chịu trận, nghe chị Ðắc nói về cái chết của mấy cháu (là anh chị họ của tôi, theo thứ tự trong gia đình) trong một cuộc oanh tạc của Không Lực Hoa Kỳ ngoài Bắc. Chị hỏi và tôi nói về các anh chị em mà chị chưa có dịp gặp. Nghe chị gọi anh Lộ là “giặc lái” thật lạ tai. Nó không làm tôi phì cười như lần nghe một cư dân ở Bình Ðịnh gọi “Bộ Ðội Rồng Khè Lửa” để chỉ binh chủng Không Quân. Khoảng gần nửa đêm anh Ðắc mới về. Câu chuyện lại tiếp tục cái kiểu cà giựt… cho tới khi mọi người đi ngủ. Thế này thì kẹt thật. Sáng mai phải đón xe đò về rồi mà vẫn chưa nghe anh Ðắc nói gì về chuyện giấy tờ cả! Cũng không dám hỏi.

Thức giấc thì chị đã đi làm rồi. Anh Ðắc không còn là người ít nói, anh còn biết cười nữa. Không hiểu sao tôi cũng thấy dễ thở hơn. Tối qua anh đi đâu vậy? Vào cơ quan chứ đâu. Anh trao cho tôi một phong bì, nói là giấy tờ ở trỏng. Chị Ðắc không hề biết gì về việc này.

Ăn sáng qua loa rồi anh tiễn tôi ra về. Bến xe cách nhà một khoảng khá xa. Hai anh em đều gầy, nhưng cái xe đạp nội hoá “tiêu chuẩn” được cơ quan phân phối của anh cũng không kham nổi. Nó trẹo qua trẹo lại như muốn gãy, thành ra phải đi bộ. Càng tốt, không trễ nãi gì, lại có thêm chút thời gian. Anh nói sơ về công ăn việc làm, sức khoẻ, hiện tại và tương lai của anh. Không có gì sáng sủa. Anh đã “lỡ đỏ đít” rồi, đó là chữ của anh, có nghĩa là anh đã vào Ðảng. Chị Ðắc, vợ anh, là do đảng “bố trí”.

Ngồi trên xe đò, đợi cho xe chạy khuất sau dãy phố thấp tôi vội lôi các giấy tờ ra xem. Lúc ấy tôi mới thấy một chút lòng của anh Ðắc đối với anh Lộ. Ngay chính tôi chắc giờ này cũng chưa dám dùng những lời lẽ đó để bảo đảm cho hành vi của  mình, chứ đừng nói chi cho người khác. Lòng mừng khấp khởi. Không ai có thể ký cho anh Lộ một cái giấy bảo lãnh tốt hơn tờ giấy này được.

Ðã mấy năm qua rồi, nên chị Lộ mừng rỡ nộp giấy vào ngay, và hồi hộp chờ tin. Có tin anh Lộ, nhưng là tin chuyển trại! Không biết có phải vì cái giấy bảo lãnh hay không, nhưng càng ngày có vẻ họ càng đưa anh đi xa, và sâu. Xa thành phố, sâu vào rừng. Có lẽ anh Ðắc chỉ là cán bộ cấp tỉnh, không đủ mạnh? Không ai biết vì sao. Vì lý do gì đi nữa cũng mặc, phải tìm cách cho anh Lộ ra. Lúc ấy càng ngày dân miền Nam càng nhận biết loại giấy mạnh nhất và chóng có hiệu quả nhất là …giấy bạc. Chị Lộ bắt đầu bán bớt tư trang và làm lụng, dành dụm thêm và âm thầm tìm “mối” lo.

Lần nào tìm ra mối “đáng tin cậy” chị Lộ cũng bắt tôi chở đi thăm dò. Từ Củ Chi tới Thủ Ðức, Sàigòn. Lần tôi còn nhớ rõ nhất là tại một căn nhà phía sau đường Phan Thanh Giản, Sàigòn. Khu này không xa lạ gì, gần trường tôi học hồi xưa. Ngày xưa  nhà nào cũng yên tỉnh như bỏ hoang, tường cao, cổng to. Ðường thì đầy bóng cây và trong gió lúc nào cũng thoang thoảng tiếng dương cầm. Chắc phải vang vọng từ cửa sổ phòng một nữ sinh duyên dáng nào đó – ít ra là trong trí tưởng tượng của một cậu học trò trung học hay mơ mộng.

Những cánh cổng nặng nề, ổ khoá bằng đồng, mới hôm nào vỡ nát vì đạn “giải phóng” nay đã được thay, và được đánh bóng. Trong sân vẫn lạo xạo sỏi trắng dưới mỗi bước chân. Căn biệt thự hai tầng, không biết bao nhiêu là cửa sổ với ô kiếng vuông kiểu Pháp, rèm thưa. Trong phòng khách thì vẫn những chùm đèn đầy những giọt thủy tinh treo lủng lẳng từ trần cao, phòng ngập hoa tươi… Người mở cổng dắt chúng tôi vào, bảo ngồi chờ rồi biến mất.

Hình dung lại nhà ông cán bộ cấp tỉnh, là anh Ðắc. Có hai chiếc chỏng tre và một cái bàn ăn không đủ ghế ngồi. Bàn phải kê sát giường để lấy một cạnh giường làm ghế. Không có gì khác đáng kể ra đây. Ðang tập quen cuộc sống mới với mọi thứ “tiêu chuẩn”, lòng không khỏi tự hỏi là cái ông này thuộc tiêu chuẩn gì mà được ở nơi cung đình lộng lẫy như vầy!

Một người đàn ông đứng tuổi xuất hiện, vừa chậm rải bước xuống cầu thang vừa vuốt ngược chùm tóc bạc phơ… Ông bệ vệ quá, nước da hồng hào, người đầy đặn. Ông làm tôi bối rối “cán bộ sao mập mạp vầy?”.  Tiêu chuẩn sống của ông, hình hài của ông không có vẽ liên hệ gì đến đám “đầy tớ nhân dân” gầy ốm, quần áo xốc xếch, đầu nón cối, chân dép vỏ xe, da xanh nhợt nhạt, lê chân khắp đường phố Sàigòn.

Ông nói chuyện với chị Lộ, tôi ngồi nghe. Không thấy nói gì về tiền bạc cả, chỉ có “giúp” và “làm ơn” thôi…lần nào cũng vậy. Người đâu mà tử tế! Thật ra, người mối lái đã cho biết giá cả rồi. Họ chỉ lấy vàng ròng, giấy “Bác Hồ” nhìn thẳng nhìn ngang gì cũng không được.

Nhưng việc lo lót rồi cũng chẳng đi tới đâu, không có kết quả cụ thể nào, lại thêm mấy năm trôi qua.

Vì là sĩ quan “tép rêu”, hay sĩ quan “bóp cò” như anh vẫn hay nói, nên nhốt chán rồi người ta cũng thả anh Lộ ra. Về nhà anh cùng chúng tôi tiếp tục học làm người ngoại cuộc trong nội tình đất nước mình.

Thời gian bị nhốt đủ để anh Lộ thấy được nhân cách con người bị hạ xuống không bằng miếng cơm cháy. Ðủ để anh thấy mạng sống của người tù còn thấp hơn thế nữa. Ðủ để khi ra tù thấy món gì vất đi, từ chai lọ tới hộp thiếc, anh cũng âm thầm lượm cất, để dành.

Ra tù anh Lộ tìm được một người cộng sản khác trong gia đình, bà con bên ngoại tôi. Anh Châu cũng tập kết và đã du học bên các xứ Ðông Âu. Anh có chuyên môn, đang đứng đầu một tổng công ty khá lớn ở Sàigòn.

Anh Châu có nhiều bạn bè trong bộ chính trị và chính phủ. Không thiếu những lúc đang chuyện trò với mấy đứa em “ngụy” thì mấy ông cán bộ gộc ghé thăm. Thế là em út bị lùa vào nhà trong, anh Châu tiếp khách phòng ngoài. Chốc chốc anh lại vào trong nói chuyện, rồi ra ngoài tiếp khách. Khi vào trong anh hạ giọng, nói những lời chân thật mà anh có thể nói được với người trong nhà. Khi ra phòng khách, anh cất cao giọng, nói toàn đường lối chính sách. Dù họ gọi nhau mày tao thân mật nhưng họ không thật với nhau gì cả. Anh Lộ ngồi phía trong nhà thấy rất rỏ. Anh Châu như đang đóng kịch, bước ra sân khấu nói cười theo kịch bản, và bước vào hậu trường thì ngưng. Anh sống như vậy rất tự nhiên, như có hai con người trong một thân xác.

Với chức vụ tổng giám đốc, anh có xe riêng với tài xế. Nhưng theo lời chị Châu thì sáng nào anh cũng quần áo chỉnh tề, xách cặp ra đường đứng đợi xe tới đón. Chị Châu còn cho biết là quà cáp biếu xén, từ lớn tới nhỏ, gởi cho riêng anh đều chạy hết vào phòng khách của công ty. Chị còn phàn nàn là anh không chịu “ăn như người ta”, chứ không thì muốn gì mà chẳng được.

Thời gian đó có mấy đứa em vượt biên bị bắt vào tù. Nghe vậy anh Châu có lần hỏi anh Lộ: “Mày có tiền sao không lo cho tụi nó ra?”. Anh Lộ ngạc nhiên, nhưng cũng vờ hỏi lại: “Anh xúi tui hối lộ cán bộ nhà nước hả?”. Anh Châu yên lặng hồi lâu không trả lời, rồi nói: “Tao chỉ có chút trong sạch, tao giử suốt đời!”. Anh là một người trong sạch. Nhiều chuyện bực mình trong nhà đã chứng minh điều đó. Anh biết rõ xã hội quanh anh nó bẩn thỉu ngần nào.Nhưng đáng tiếc là, như anh nói, anh chỉ lo giử phần mình trong sạch thôi.

Nếu kể hết anh em họ nội ngoại và cả dâu rể thì trong gia đình nay có nhiều người là  cộng sản, không phải chỉ có anh Ðắc và anh Châu. Hiểu “người cộng sản” thế nào thì tuỳ từng người. Tôi thích cách hiểu của mình. Những ai tự xưng là cộng sản, tin rằng họ là cộng sản, giả bộ là cộng sản, hay tưởng họ là cộng sản đều lọt vào một trong hai trường hợp: hoặc họ là những kẻ đã bị lừa, hoặc họ là những tên bịp bợm.

Chủ nghĩa cộng sản là gì nếu không phải là sự bắt chước ngu muội hệ thống sinh hoạt của loài ong, loài mối, rồi đem áp dụng lên loài người. Người cộng sản không bao giờ có thật. Trừ khi họ đã biến thành con ong, con mối hay con kiến thì là chuyện khác.

Trà Bồng

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button