Hai bài báo nói không đủ một mối đau!!

Phan Nhật Nam

Hẳn chỉ do ngẫu nhiên mà hai người phụ trách biên tập hai tờ báo khác nhau, thuộc hai lãnh vực sinh hoạt cách biệt.. Một người vốn sinh trưởng nơi miền Bắc Việt Nam, băùt đầu cầm bút với những dòng thơ trữ tình, huynh trưởng hướng đạo, chuyên nghiệp giáo dục; một là người thuần chất bản sắc miền Nam, hành xử nghiệp viết báo là phương tiện để bổ khuyết những nhiệm vụ chưa thể hoàn thành được. Nhưng như hẹn trước, cả hai cùng lúc viết hai bài báo tuy với đề tài khác nhau nhưng lại tập trung về một vấn đề xa xót.. Người thứ nhất, ký giả Vi Anh của Việt Báo (số ra ngày 3 tháng 4, 2004) có những lời khẩn thiết: “…Cù Lao Dung nước ngọt, đất tốt, vườn sung, gái đẹp, bây giờ dân Miền Tây gọi là “Cù Lao Đài Loan”vì là nơi mấy ông Trượng Đài Loan qua cưới vợ nhiều nhất..“ Không phải cưới hỏi theo nghĩa thông thường giữa hai người nam, nữ do liên hệ yêu thương nhưng là tình cảnh..” những người đàn ông Đài Loan, già có, trẻ có, tàn tật, bịnh hoạn ngồi chọn vợ giữa một đám thiếu nữ trần truồng đi qua lại – mà thực chất chỉ là – “mua bán phụ nữ một cách hợp pháp.” Những cuộc hôn nhân tàn tệ nầy được thực hiện giữa những “cô dâu sống ở nông thôn thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long, trình độ học vấn không cao.. lấy chồng vì mục đích kinh tế, nhưng không ít người gặp rủi ro, chẳng những không đạt được mục tiêu mà còn phải chịu nhiều đau khổ (biến thành nô lệ tình dục cho tập thể giống đực ông trong gia đình kia, và bạn bè của họ; tiếp trở nên đầy tớ không công, luôn bị hành hạ, đánh đập)”; và những chú rể “thu nhập thấp, trình độ giáo dục không cao (bởi chẳng ai có học vấn, được giáo dục biết tôn trọng giá trị người lại đi “mua” người gọi là vợ theo như cách trên – pnn), ngoại ngữ kém, không biết tiếng Việt. Các “chú rể” đến đây chỉ vì một lý do cực kỳ quan trọng: “Chi phí cưới một cô vợ Việt Nam thuộc hàng thấp (thấp nhất- pnn) so với các nước trong khu vực.. Cũng như giá nhân công lao động (của, từ VN) thuộc loại rẻ nhất vậy”. Nhưng vấn đề không giới hạn chỉ trong phạm vi văn hóa suy thoái, phẩm giá dân tộc bị xúc phạm, Vi Anh nhìn rõ thực chất hơn theo như quan điểm chính trị – xã hội người cộng sản hằng chủ trương, đang thực hiện: Hiện tượng quái đản bất nhân nầy là hậu quả tất yếu từ, của một chính sách kinh tế trong thời cộng sản Hà Nội chuyển sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; chính sách kinh tế nầy cùng lúc dựng nên những tệ trạng: 1/Người Miền Tây (ĐBSCL) chết đói trên vựa lúa của mình khi cộng sản Hà Nội thúc đẩy vùng đất màu mỡ nầy thực hiện chỉ tiêu, “nước sản xuất gạo nhiều đứng thứ hai thế giới”; nhưng “vật tư nông nghiệp” hoàn toàn do nhà nước quy định giá cả. Người dân (nông dân) rơi vào tình thế “một cổ hai tròng” với áp lực ngày càng tăng do Bộ Nông Nghiệp nâng giá vật tư (phân bón, thuốc trừ sâu, cơ khí canh nông..); và ngành Ngoại Thương dìm giá khi mua gạo vào. Hai chiều hướng trái ngược (trong hoạt động kinh tế) nầy gây nên tình trạng nghịch lý: Càng sản xuất (gạo) nhiều (nông gia) càng bị thiệt hại nặng!! Đấy là chưa kể sự kiện cán bộ cộng sản không rành nghiệp vụ nghiên cứu thị trường thế giới, không có chính sách khuyến nông hợp lý, buộc nông dân phải phá ruộng để canh tác theo chính sách “ăn xổi ở thì”, như trồng tiêu, điều, cây ăn trái, cà phê.. Cuối cùng, nông dân bỏ ruộng vườn đổ xô về thành thị gây nên cảnh bùng vỡ, tắc nghẹt dân số ở các thành phố (Sài Gòn lên tới 10 triệu người so với 500.000 người buổi đầu thế kỷ 20).
2/ Bị đẩy vào tình trạng cùng kiệt do bị bóc lột kinh tế (hơn bất kỳ chế độ “bóc lột” nào đã xuất hiện trên vùng đất ưu đãi trù phú nầy), người dân (phần lớn là nông dân- giai cấp cốt cán của chế độ cộng sản Châu Á, càng cụ thể hơn đối với cộng sản Việt Nam) phải tự cứu bằng cửa ngõ nhào ra thành thị kiếm sống. Nhưng tại đây, họ lại bị rào cản của chế độ hộ khẩu (để có một nghề nghiệp ổn định, nơi cư trú hợp pháp), nên cuối cùng, họ phải áp dụng biện pháp sinh tồn bằng phương tiện độc nhất còn lại – thân xác của chính mình – qua những “ngành nghề không vốn”: phụ đẩy xe lên dốc cầu, khuân vác, lao công giá rẻ.. Và những tệ nạn xã hội, ăn xin, cướp giật, mãi dâm tiếp xẩy đến như một diễn tiến tất nhiên, ắt có. Thế nên, đối với người đàn bà Việt Nam, hiện tượng “làm dâu Đài Loan” thực tế chỉ là một quá trình đồng thuận để người cha, người chồng bán vợ, đợ con; và “chú rễ Đài Loan” gọi đúng tên chỉ là kẻ đi mua nô lệ tình dục một cách hợp pháp với giá rẻ. Sau công việc phục vụ xác thịt, tiếp là tình cảnh lao nô không tiền công (dẫu là tiền công tệ mạt nhất) mà phần đông những người con gái, đàn bà xấu số kể trên phải im lặng chịu đựng giữa xứ người xa lạ, vây hãm bởi một lũ đàn ông kém học vấn, háo dục, tham lam, bệnh hoạn..
3/Sau 1000 năm nô lệ giặc Tàu; 70 (1884-1954) năm thực dân Pháp đô-hộ; hai-mươi năm nội chiến; gần ba-mươi năm mất Miền Nam.. suốt bề dày lịch sử 4000 năm, chưa có thời nào phụ nữ Việt Nam vốn “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” lại bị xuống dốc nhân phẩm, giá trị đến như vậy. Chưa bao giờ cha mẹ người Việt vốn xem con như núm ruột mà nay phải nén lòng đem con đi gả bán như vậy. Chưa bao giờ người Miền Tây trên đường Nam Tiến với lời hào sảng “Ra đi gặp vịt thì lùa. Gặp duyên thì kết. Gặp chùa thì tu…” mà nay phải gánh chịu tình cảnh thương tâm ngang trái bất nhân nghĩa – Chết đói trên lẫm lúa vô tận của mình để phải đi đến tình thế cắn răng nuốt nhục “bán vợ, đợ con” như vậy!!
Vi Anh kết luận: “Tội làm nghèo đất nước. Tội làm nhục dân tộc. Tội làm khổ tâm hồn lẫn thể xác dân Miền Tây.. Trách nhiệm nầy thộc về Đảng, Nhà Nước cộng sản Hà Nội chứ không ai khác. Và ông nhìn rõ vấn đề ngay tại đầu mối: ”Bỏ một bên thái độ kỳ thị địa phương, người ta cũng thấy (đầu mối) cái nhục của dân Miền Tây là do đảng viên gốc Miền Nam đi A (đi ra Bắc sau 1954) trở lại B (Miền Nam), hay (lớp cán bộ) ở lại tại chỗ là thiếu tánh đấu tranh. Khu Tây Nam Bộ đã bị Lê Duẩn giải tán sau khi Trường Chinh giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (1976- pnn). Chưa đủ, Đỗ Mười lại còn vào Nam gọi là “đánh tư sản, triệt hạ, cào bằng” kinh tế Miền Nam xuống thấp như Miền Bắc. Rồi Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh tạo điều kiện cào bằng Văn Minh Miệt Vườn ngang văn hóa tam vô của cộng sản Miền Bắc..” Và câu hỏi đặt ra cho tất cả chúng ta: “Chẳng lẽ Người Việt không cộng sản ở Bắc, ở Trung, ở Nam hơn 97% dân số, và ở hải ngoại 3% lại để cộng sản tuyệt thiểu số tiếp tục làm nghèo, làm xấu đất nước và nhân dân Việt Nam như vậy hay sao? Chẳng lẽ nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không cảm thấy tủi nhục hay sao?” Vâng, phải nói như thế. Phải hỏi những thủ phạm và nêu đủ danh tính chúng rõ ra như vậy chứ không có cách nào khác.

Người thứ hai, người phụ trách mục bình luận Báo Người Việt, Ngô Nhân Dụng (số ra cùng ngày 3 tháng Tư) mở đầu bài viết với bản tin: “Báo Công An Sài Gòn tỏ ý “bức xúc” về trật tự an ninh ở Quận Bình Thạnh” do ở đấy có hiện tượng, “những quán cà phê dẹp hết bàn ghế để bán cà-phê ở trên.. giường”. Không chỉ tỏ ý “bức xúc” (theo nhận định của NND), tờ báo công an cộng sản còn miêu tả cặn kẻ cách thức hành nghề “lên giường” của những “nữ tiếp viên cà-phê”, cũng không quên kể rõ tên hiệu, mỗi địa điểm: Quán Chiều Tím, Sông Mây, Hoa Sữa.. Những tên hiệu được thông tục hóa do từ phổ biến những bài thơ “nổi tiếng” của các thành viên Hội Nhà Văn Việt Nam mà Nguyễn Huy Thiệp đã nêu lên trên báo Ngày Nay của cơ quan UNESCO ở Hà Nội. Bài viết của Thiệp là một báo cáo chính thức cốt làm nổi bật “thành quả văn học xã hội chủ nghĩa” dưới lãnh đạo của đảng cộng sản Hà Nội nên không thể không tin cậy. Tóm lại, qua tường thuật của báo công an, người đọc nhận ra hai điều: a/ Công an cộng sản cái gì cũng biết (tên quán, tên cô gái “lên giường…”; cô gái lấy bao nhiêu tiền trong một dịch vụ pha chế, bưng dọn cà-phê), dẫu những quán kia tối hù như đêm ba- mươi; khách ra vào phải có dấu hiệu nhận diện.. b/Tuy biết đủ, biết rõ, nhưng do bất lực không giải quyết được những “tiêu cực xã hội” nên lương tâm công an cộng sản bị “bức xúc”! Hay thiệt, không có ở đâu trên thế giới nhiễu nhương nầy có được một chế độ chính trị-xã hội đã huấn luyện, sản xuất nên một bầy lũ công an có phẩm chất “đạo đức cách mạng tốt, đẹp, sạch- Mắt công an. Gan bộ đội” (lời Phạm Văn Đồng) như thế?! Và cũng lạ, công an thì “đạo đức” cùng mình như vậy trong khi ủy viên trung ương đảng thì lưu manh đàng điếm như phó chủ nhiệm ủy ban thể thao thể dục Lương Quốc Dũng dùng tiền bạc, cậy thế lực, địa vị để hiếp dâm cháu nhỏ 13 tuổi! Nhưng Dũng không phải một mình còn nhiều tên khác nữa! Xác định do báo Sài Gòn Giải Phóng đưa tin về lời tuyên bố của Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương trong một buổi họp của trung ương đảng – Cái đảng đáng nguyền rũa đã gây bao nhiêu điều nguy khốn đau thương cho toàn khối người Việt, xong bắt mọi người phải xưng tụng, tung hô nó.

Trở lại với những vụ việc có liên hệ với chúng ta, qua bài báo của Ngô Nhân Dụng, sau những vụï việc tầm ruồng, thô tục về người và việc ở trong nước, dần xuất hiện một sự kiện có tác động trực tiếp đối với tập thể người Việt hải ngoại – Đấy là, Bộ Chính Trị đảng cộng sản Hà Nội vừa phổ biến “Nghị Quyết số 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” với mục tiêu chiến lược lâu dài, sâu rộng- chẳng những chỉ ảnh hưởng đến mỗi cá nhân thuộc cộng đồng tỵ nạn người Việt hôm nay, nhưng đối với nhiều thế hệ mai hậu; không phải một nơi tương lai xa xôi nào nhưng ngay hiện tại, với mỗi ngày đang diễn ra. Nghị quyết kia gồm nội dung:1/Đại cương tình hình và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. 2/Chủ trương và phương hướng công tác sắp tới. 3/Nhiệm vụ chủ yếu. 4/Tổ chức thực hiện. Bản nghị quyết do Phan Diễn, ủy viên bộ chính trị, thường trực ban bí thư trung ương đảng cộng sản Hà Nội ấn ký. Đây không phải là tập tài liệu có tính cách tuyên truyền, lý thuyết suông, nhưng đề ra những việc làm cụ thể cho từng bước thực hiện, với những đối tượng riêng biệt.. Như những nhận định cơ bản, chỉ thị điều hành sau đây: “Một bộ phận (người Việt nước ngoài) chưa có dịp về thăm đất nước để thấy tận mắt những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước.(Nghị Quyết 36-Phần I; điều 1) Điều nầy sở dĩ xẩy ra là do: “(Đảng) Chưa có hình thức thoả đáng để cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin cho đồng bào về tình hình đất nước, và chính sách của đảng, nhà nước”(PI; đ2). Để bổ khuyết những những thiếu sót “đang tồn tại”, bản nghị quyết đề ra những chính sách:”Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nước”(PIII; đ3). Nhắm vào túi bạc của giới đầu tư; khai thác bộ não của những giới khác: “Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp.. Khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con, nhất là của những thế hệ trẻ…” (PIII; đ4); Thế hệ trẻ được lưu ý một cách đặc biệt và sâu xa: “Tích cực đầu tư chương trình dạy và học tiếng Việt… Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt.. Cải tiến chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, qua mạng lưới Internet”(PIII; đ5). Khai thác tối đa, lợi dụng triệt để hệ thống truyền thông hiện đại của cộâng đồng người Việt hải ngoại: “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền giúp người Việt nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách đảng, nhà nước. Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền hình và Internet.(PIII; đ6). Chúng tôi có thể ngừng phần trích dẫn bản nghị quyết nơi đây để bàn rộng về những điểm chủ yếu qua bài nhận định của Ngô Nhân Dụng. Bắt đầu, NND có thắc mắc: “Tại sao phải lo cho (người) nước ngoài trong khi trong nước có hằng ngàn hàng chục ổ mãi dâm có bảng hiệu mở ra như vậy, hoạt động nhiều tháng trời như vậy(?!).. Rồi công an (lại là công an cộng sản) mà không biết một chút gì về những hoạt động làm dơ bẩn chế độ ưu việt “đạo đức xã hội chủ nghĩa theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu”?! Rồi công an (vẫn là công an cộng sản) biết đến rõ từng địa điểm, từng cô ả bán “cà-phê-lên giường” nhưng không làm gì hết ngoài cách viết báo để giải tỏa nỗi “bức xúc”!! Từ mối “bức xúc” gây nên bởi công an, NND chỉ ra những điều gây “bức xúc- những hiện tượng tiêu cực chưa tốt” khác: “Những cô gái bị bán sang Tàu; đi lao động, làm ô-sin (lao nô) ở Hồng-Kông, Đài Loan, Mã Lai Á với giá một triệu đồng (khoảng 60 đô-la Mỹ); hàng ngàn người Việt sống lây lất trên Biển Hồ Tông-Lê-Sáp, nam tỉnh Xiêm Rệp (Campuchia), trẻ không đi học, người bịnh không có thuốc, chỉ nằm đợi chết.. Và cuối cùng, những ổ điếm ở Nam Vang với những con trẻ Việt Nam, đứa lớn nhất 14 tuổi, đứa nhỏ nhất còn nằm nôi (4 tuổi) đang đợi đủ ngày, giờ lớn lên để làm… điếm!! Chúng tôi ngừng trích dẫn nơi đây với cảm giác buồn nôn – Tình cảnh của người khi đối diện, trông thấy, chạm phải, nuốt phải một thức nhầy nhụa gớm tởm nhất mà con người (chỉ có thể là con người) tạo nên – Ở đây, thứ loại dơ bẩn quái đản ấy là bản nghị quyết đầy những cái gọi là nhận định, kế hoạch của bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội do Phan diễn ấn ký. Nhưng khốn nạn thay, những chữ nghĩa kia không phải chỉ là văn tự xuông, chúng đã, đang hiện thực nên hành động, biến thành nguồn tin, văn bản, chuyện kể, phóng sự xuất hiện ứ tràn trên toàn thể những trang báo của cộng đồng người Việt hải ngoại (nếu không gần hết thì cũng chiếm phần đa số).. Cuộn phim sex “Cô gái Hải Phòng”; phóng sự “Con trâu giữa phố Hà Nội”; bài viết về, “Điện Biên Phủ cho tới nay vẫn còn là một điểm son chiến thắng của cả một dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp…” Cần nói rõ: Chúng tôi không hề hàm ý cáo buộc những bản tin trên những tờ báo Việt ngữ hải ngoại, (điển hình) nơi miền nam Cali kia là do bị cộng sản Hà Nội giựt giây, cố tình phổ biến tin tức (từ những nguồn phân phối của cơ quan thông tin điều hành tại Hà Nội).. Nhưng quả thật chúng đã là những bước đầu rất đắc lực, khả dụng để hiện thực Nghị Quyết số 36 của Hà Nội một cách chính xác và hiệu quả nhất. Chúng đã, đang phổ biến, hợp thức hóa, thông tục hóa sinh hoạt người, việc, sự vật ở Hà Nội, ở Thành phố HCM, ở Hà Nam Ninh.. đêå người Việt nơi khu Phước Lộc Thọ, Westminster, Orange County hoàn toàn không biết một chút gì về nét đặc thù của người Việt nơi con đường gọi là “Phố Ăn Nhậu” (Eat Street) Nicolet, Minneapolis, thuộc Tiểu Bang Minnesota; hoặc ở Xóm Đạo Gretna, Louisiana.. Nhưng người Việt (hải ngoại) lại biết rất rõ cảnh cởi áo quần của đội trai gái ở Hải Phòng, bởi tất cả các báo (nơi nam cali) đồng đăng lại đến lần thứ hai, lần thứ ba bài viết có “giá trị khả tín cao” về nguồn tin phát đi từ trong nước; người “Việt Nam tỵ nạn cộng sản” chỉ đọc bản tin về “Ngày Thuyền Nhân” một lần, nhưng chia chung với “Quả bom hơi “Tình Thôi Xót Xa” của Nghệ Sĩ Bảo Chấn do cô ca sĩ “tóc nâu, môi trầm” Mỹ Tâm kích hoạt…” đến mấy lần trên tất cả những tờ nhật báo, tuần báo của người Việt Nam tỵ nạn cộng sản nơi hải ngoại!! Các báo cũng không quên đăng hình Bảo Chấn để cho chúng ta biết mặt cái gọi là “nghệ sĩ Bảo Chấn” và hoạt động “tạo nên phiên bản”Tình Thôi Xót Xa” của đương sự khi anh ta đánh cắp giai điệu một bài hát nào đó của Nhật Bản.

Hóa ra nỗi khổ nhục của cả một Dân Tộc bị bức hại; nỗi đau xót của vạn triệu con người (Người Việt Nam) bị khinh miệt; cơn đày đoạ vô hạn của người đàn bà, con trẻ gọi là Người Việt Nam dần được (đúng ra là bị) hóa giải, vô hiệu hóa bởi những bản tin có tiêu đề: “Cho Một Bước Ngoặt Tương Lai” kể lại câu chuyện: “Nếu du khách nào chưa thật sự hài lòng với Điện Biên Phủ, chúng tôi xin nhận và mong được cảm thông.. Chúng tôi đã làm hết sức mình để nhiệm vụ chính trị của Năm Du Lịch Điện Biên 2004 sẽ có một bước ngoặt!!” Như thế là thế nào? Chúng ta cần thêm bao nhiêu bài báo như của Vi Anh, Ngô Nhân Dụng, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đạt Thịnh.. Nếu không, tại một tương lai không xa (kể từ hiện tại hôm nay), nơi trang nhất của nhật báo, ở chỗ trang trọng nhất của tuần báo, nguyệt san sẽ xuất hiện (như hiện có) một cột tin chữ đậm: “Vợ thiến ông chồng ngoại tình ở Quảng Trị…” với lời cẩn chú: “Như đã nhiều lần xẩy ra ở “nước ta”, ở Hà Nội, ở Hà Sơn Bình…”

Khi phá thân vượt biển, chấp nhận cái chết giữa trùng dương vào những năm tháng cách đây không xa, Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản hẳn có ý thức rất rõ (dẫu không nói nên lời) về Nghĩa Cao Quý của Tự Do trong đó hàm chứa Tự Do Thông Tin-Ngôn Luận. Vậy chắc rằng, không ai trong chúng ta sẽ hành xử Tự Do đổi bằng máu của chính mình kia để trích đăng về một cảnh cởi áo quần của đôi trai gái nào đó ở “Thành phố hoa phượng đỏ Hải Phòng…” với một thứ văn phong “chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kiểm duyệt do đảng ủy đề xuất.. Loại hình văn hóa đang có những bước ngoặt ở nước ta!!” Những nguồn tin tầm phào (có vẻ vô hại nầy) sẽ che lấp sự kiện vĩ đại của hàng trăm ngàn Người Thượng Tây Nguyên trong Ngày Chúa Phục Sinh 11 tháng 4, 2004 đã tập trung xe máy cày, xe ủi đất tiến công vào trụ sở chính quyền cộng sản để Đòi Quyền Làm Người sau hai-mươi-chín năm của Ngày 30 tháng 4, 1975.

Phan Nhật Nam
Ngày Phục Sinh
Garden Grove, 11 tháng 4, 2004.

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button