Những nét về cuộc đời cách mạng và phong trao Duy Tân
Nguyễn Qúy Ðại, Munich German
( 50 năm thành lập trường trung học PCT Đà Nẳng vào kỷ niệm 150 sinh nhật cụ Phan, mến tặng các bạn đã và đang học trường PCT ) Nguyễn Qúy Đại
Tiểu sử
Phan Chu Trinh sinh tháng 8 năm 1872 (nhâm thân) tại làng Tây-Lộc phủ Tam-Kỳ Quảng Nam ( sau nầy đổi thành thị xả Tam Kỳ tỉnh Quảng Tín ) tự Tử Cán hiệu là Tây Hồ. biệt hiệu Hy Mã.
Xuất thân trong một gia đình có danh tiếng tại Tiên-Phước, Thân phụ Phan văn Bình làm quan chức Quản Cơ Sơn Phòng, Thân mẫu là Bà Lê thị Chung, con gái nhà vọng tộc ở làng Phú Lâm thông chữ Hán . Phan Chu Trinh là con trai út trong gia đình, thi đổ cữ nhân năm 1900 , Phó bảng 1901 đến năm 1902 được hậu bổ ở Huế làm quan
Bối cảnh lịch sử
Bất hạnh lớn trong thời ấu thơ Phan Chu Trinh mất Mẹ sớm, đi học trễ lúc 10 tuổi , Năm 16 tuổi thân phụ bị giết trong Phong trào Cần Vương. Phan Chu Trinh trưởng thành trong một bối cảnh đen tối của Lịch sử .
Quân Pháp chiếm 6 tĩnh Nam Việt .05/07/1885 Tướng De Courcy đem đại quân đánh úp Kinh thành Huế, Tôn Thất Thuyết (1835-1913) xa giá Vua Hàm Nghi (1872-1943) ra khỏi Kinh thành. Các đạo quân De Courcy chỉ huy vẫn đuổi theo truy lùng. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua chạy đến Tân Sở (QuảngTrị).
Thảo hịch Cần Vương được các sĩ phu khắp nơi hưởng ứng lời kêu gọi, nổi lên chống Pháp, Bấy giờ Thân phụ cụ về hưu trí nhưng hưởng ứng, theo giúp Phong trào Cần Vương. Làm chuyễn vận sứ ở đồn A-Bá Tiên Phước và lập đồn điền để trồng hoa màu tiếp tế cho đội quân Cần Vương.
Quê nhà bị giặc đốt cháy gia đình phải tản cư đến chiến khu của Thân phụ.Trong thời gian nầy được học võ thông thạo với hy vọng để nối nghiệp cha cưú nước
Phong trào Cần Vương (Nghiã Hội Quảng Nam tháng (7/1885- 8/1887) do ông Hường Nguyễn Duy Hiệu (1) làm lãnh tụ chống Pháp.
Tổng trú sứ Bihourd đề nghị với Đồng Khánh sai Nguyễn Thân đánh dẹp Phong trào Nghiã Hội Quảng Nam. Nguyễn Thân đánh Tam Kỳ và phá nhiều căn cứ quân Cần Vương. Ông Nguyễn Duy Hiệu không biết dựa vào tin tức nào ? nghi ngờ cụ Phan Văn Bình có tâm theo Pháp, mời cụ Phan Văn Bình đi họp ra lệnh cho nghiã binh bất ngờ giết cụ Bình tại cầu Mỹ Lý.(**)
Nguyễn Thân tiếp tục truy lùng quân Cần Vương, bắt được gia đình Nguyễn Duy Hiệu tại miền thượng nguyên Phước Sơn, làm con tin yêu cầu ông ra đầu hàng, vì lòng hiếu thương Mẹ già và gia đình, Ông phải về với triều đình ( Đồng Khánh) lảnh bản án tử hình chết thay cho gia đình và chiến hữu.
Đồng Khánh lên ngôi 14/9/1885 nhưng chỉ làm vua bù nhìn. Triều đình có một số quan lại muốn yên thân cúi đầu răm rắp tuân theo lệnh của bọn thực dân. Xả hội và triều đình bị phân hoá trầm trọng chia làm hai phe. Phe theo kháng chiến cứu quốc, Phe còn lại hàng giặc để thưà hưởng, vinh thân phì gia
Cuộc kháng chiến của Vua Hàm Nghi thất baị tên thổ phỉ Lê Quang Ngọc, và Nguyễn Đình Thìn chỉ điểm cho Pháp.Vào đêm 01.11.1888 bắt vua Hàm Nghì giao cho Đại úy Boulanger vào ngày 4-11-1888. đến trung tuần tháng 8 năm 1889. bị đưa sang Bắc Phi lưu đày.
Các cuộc nổi dậy của Phong trào Cần Vương đều bị đánh dẹp. Các tay sai đắc lực như Nguyễn Thân (1840-1914), Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải (1850-1933), Lê Hoan , Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902), Phạm Ngọc Quát v.v. lịch sử còn phê phán, người đời nguyền rủa. Các tên phản quốc : Ngọc và Thìn đều bị nghiã quân Phan Đình Phùng (1844-1895) giết để làm gương cho hậu thế
Thân phụ mất, cũng như Tổng đốc Hòang Diệu (1828-1880) hy sinh năm 1882 taị Hà nội và những người yêu nước khác, đều gục ngã dưới lưởi đao oan nghiệt , Hoàn cảnh xả hội làm thay đổi tư tưởng đấu tranh của Phan Chu Trinh sau nầy.
Từ giả chiến khu ( Cần vương) về quê sống với người anh là Phan Văn Cừ. Lo xây dựng lại nhà cửa bị đốt cháy trong chiến tranh Cụ đến thụ giáo với cụ Đốc Trần Mã Sơn 1889 và được gởi đến trường tại làng Thanh Chiêm quận Điện Bàn. Cách thành phố Hội An và Đà Nẳng không xa, có nhiều cơ hội về hai nơi trên để mua sách vở, tiếp xúc với nền văn minh Phố hội. và nổi tiếng học giỏi thông minh, Năm 1902 đậu Phó Bảng bổ ra Huế làm quan . Người anh cả mất về để tang, ở nhà dạy học đến năm qúy mão 1903 lại được bổ Thưà-biện bộ lễ.
Huế là Đế đô trung tâm văn-hoá, cơ hội tốt tiếp xúc nhiều giới trí thức Đào Nguyên Phổ (1861-1907), Thân Trọng Huề ( 1869-1925) Phan Bội Châu (1867-1940). Đọc nhiều sách tiếp thu nhiều tư tưởng mới, Tàu bè ngoại quốc đến Đà Nẳng đem sách bán cho sĩ phu Việt Nam. Lúc ấy sách Tân thư,ợ của Khang Hữu Vi, ( Kõang Yu – Wei 1858-1927 ) Lương Khải Siêu ( Liang Chõi Chõao 1837-1929 ) và sách của các tác giả : Montesquieu (1689-1755), Rousseu (1712-1778), Voltaire (1694-1778) được dịch sang tiếng Trung Hoa ( vì thời bấy giờ người trí thức Việt nam học Hán văn)
Theo sử gia Trần Gia Phụng có thể Phan Chu Trinh đọc qua các tác phẩm : Trung quốc chiến kỷ “ chiến tranh Trung Hoa Nhật Bản 1894-1895” Phổ Pháp chiến kỷ “chiến tranh Đức Pháp (1870-1871) Dinh hoàn chí lược “ sơ lược về điạ lý thế giới ” Trung quốc hồn, Nhật Bản duy tân sử , Tân Văn Dân Tùng Báo “ do Lương Khải Siêu chủ trương” Mậu tuất chính biến “cuộc chính biến năm mậu ngọ 1898 thời vua Quan Tự “
Nhưng theo nhà văn Nguyễn Văn Xuân, cụ Phan ảnh hưởng sâu rộng tư tưởng Duy Tân cuả tác giả Nguyễn Lộ Trạch (2) với bài “ Thiên Hạ Đại Thế Luận”
Phong trào Duy Tân
Cuối năm 1904 Phan Chu Trinh bỏ việc làm ( từ quan ), rời Huế không muốn vào lòn ra cúi. Chính phủ Nam triều có Vua và triều đình nhưng chỉ đặt ra để thi hành những mệnh lệnh của chính phủ bảo hộ mà thôi. chứ không có quyền hành gì cả
Nghĩ việc có thì giờ giao du với những sĩ phu yêu nước.. Phan Chu Trinh cùng hai người bạn thân là Hùynh Thúc Kháng (3) và Trần Quý Cáp (4) Không làm quan để vinh thân phì gia chọn con đường đấu tranh nhiều chông gai nhất. bắt đầu dấn thân hoạt động với Phong trào Duy Tân tại Quảng Nam.
Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hoá dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương. Truyền bá canh tân mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ , bỏ mê tín dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt móng tay dài như lá lan. Phát động phong trào học chữ Quốc Ngữ
Phong trào Duy Tân chống lại lối học từ chương “ triều đình Huế vẩn duy trì lối học thi phú, từ chương qua các loại sách như Tứ Thư : “Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử ” và Ngũ Kinh “Thi, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu..” cho đến năm 1913 bắt đầu cải cách Năm 1917 khóa thi Hương cuối cùng chấm dứt chương trình học cổ điển !! “
Nếu chương trình giáo dục không thay đổi khó có thể theo đời sống văn-minh, khoa-học, kỷ-thuật Tây phương, người ta dùng kỷ nghệ nặng như đóng Tàu, đúc súng..đem lại đời sống phồn thịnh và phát triển
Ba người ( Phan, Hùynh, Trần ) cùng nhau đi vào miền Nam, tới Bình Định gặp quan tĩnh khảo học trò bài thơ “Chí Thành Thông Thánh”.và bài phú “Danh Sơn Lương Ngọc” Các Cụ cùng nhau thảo tựa đềỳ Phan Chu Trinh làm bài thơ “ Chí Thành Thông Thánh “ nói rõ về thời sự để đánh thức học sinh và Đồng bào đang ngủ quên . Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp làm bài phú
Chí thành thông thánh
Thế-sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang-sơn vô lệ khấp anh-hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niên cam thóa mạ
Bất tri hà nhật xuất lao dung,
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Thỉnh bả từ văn khán nhất không
Tạm dịch
Việc đời ngoảnh lại thành không,
Còn đâu giọt lụy non sông khóc người
Muôn dân luồn cúi tôi đòi
Văn chương bát cổ say hoài giấc mơ
Mặc ai chửi rủa tha hồ,
Xích xiềng này biết bao giờ tháo xong ?
Anh em còn chút máu nồng
Hãy đem văn ấy đọc cùng nhau nghe..
( Á nam Trần Tuấn Khải)
Các bài thơ, phú như một tiếng sấm đánh xuống tại trường thi, tác dụng cảnh tỉnh đám sĩ tử đang còn mê muội với văn chương thi phú. Ham công danh quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Đây là một vận động gây được tiếng vang lớn trong giới trí thức và quần chúng rất mạnh mẽ.
Chính quyền điạ phương truy lùng tác giả các bài trên. Nhưng các cụ đã đi xa vào tới Nha Trang, xem hạm đội Nga do đô đốc Rojestvensky chỉ huy tạm thả neo chờ ngày cấp cưú Lữ Thuận (Lu Shun)
Ba người tới Phan Thiết gặp các ông Trương Gia Mô (1866-1930), Hồ Tá Bang (1875-1943), Nguyễn Trọng Lôi ( ?-1911) cùng bàn chuyện Duy Tân, thành lập công ty Liên Thành và mở trường Dục Anh. Cụ Phan bị bệnh nên không thể tiếp tục xuôi Nam. Phan Chu Trinh ở lại dưỡng bệnh ỳ Huỳnh Thúc Kháng ,Trần Quý Cáp trỡ về hoạt động tại tỉnh nhà có thêm Lê Bá Trinh (5), Phan Thúc Duyện (6) là những người khoa bảng không ra làm quan, tham gia vận động mạnh cho phong trào Duy Tân .
Phong trào Duy Tân với chủ thuyết Dân Quyền được trực tiếp vận động trong quần chúng, thực hành theo phương thừc hoạt động của Khang hữu Vi và Lương Khải Siêu. Khác với Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895), Nguyễn Trường Tộ (1828-1817), Phan Thanh Giản (1796-1867), Phạm Phú Thứ (1820-1883) viết những điều trần gởi cho triều đình Huế. Bị bỏ quên qua thời gian, không được thực hiện và cải cách.
Tại Quảng Nam các thương hội dệt những thứ vải dày có thể may Âu phục. Cụ Phan đích thân làm gương cắt may mặc bộ đồ tây bằng vải nội . Hàng vải tơ lụa nội hóa được cải tiến, làng Bảo An , Điện Bàn nổi tiếng dệt đẹp cần phải phát triển nâng thủ công nghệ để có thể cạnh tranh với tơ lụa nhập cảng,
Nông hội được phát triển lớn nhất là Yến Nê, (Điện Bàn) rộng chừng 20 mẫu nông hội nầy trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu theo hai bên bờ sông còn lại một dấu tích cho đến ngày nay. Mỹ Sơn ( Duy Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn ( Đại Lộc) khai phá để trồng lúa
Về thương nghiệp phát triển và cạnh tranh với thương gia Trung Hoa . Các thương hội có tổ chức , phương pháp làm việc kết của các Thương hội : Phong Thử ( Điện Bàn) do Phan Thúc Duyệïn trông coi điạ điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập ngưòi đến buôn bán, Hội An thương cuộc nầy do ông Bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sỉ và lẽ vải, gạo, đường , quế, trên các món hàng bày bán đều có định giá rỏ ràng nhân viên lịch sự tiếp khách.., Phú Lâm ( Tiên Phước) do Lê Cơ tổ chức. Chương trình khuyến kích công thương nghiệp một bước tiến đầu tiên tại Quảng Nam từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt Hà Nội và Sàigòn
Những nhà nho cách mạng tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Đỗ Chân Thiết mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây và mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở Hàng Gai..Tại sài gòn có Minh Tân Khách sạn của cụ Phủ Chiếu
Phong trào Duy Tân là cuộc cách mạng lớn trên mọi lảnh vực đầu Thế kỷ 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ Quốc Ngữ lan rộng trên khắp nẽo đường đất nước. Vua Thành Thái thường cải trang vi hành, nghe và ảnh hưởng phong trào Duy Tân cắt bỏ cục tóc trên đầu , các Quan lại trong Triều ngạc nhiên và sững sờ khi Ngài ngự triều, nhà Vua tự làm gương đề xướng theo Duy Tân cải cách sinh hoạt để thúc đẩy dân tiến. (Thành Thái người điên thế kỷ trang 236 nhà xuất bản văn học ) Bọn thực dân kết án ai theo Duy Tân cắt tóc gọi là giặc cúp tóc. Ngày 30/7/1907 toàn quyền Beau kết tội vua Thành Thái bị bệnh tâm thần và phế đế, lập Duy Tân (Vĩnh San) lên ngôi (1900-1945)
Phong trào Duy Tân phát triển tốt đẹp tại quê nhà, Phan Chu Trinh ra Nghệ An gặp Ngô Đức Kế (7) đến Hà Nội tiếp xúc với một số sĩ phu đất Bắc mở rộng Phong trào Duy Tân, Phan Chu Trinh rất có tài diển thuyết chinh phục được những người bảo thủ tham gia phong trào, khuyến khích mở trường dạy nghành nghề từ công nghiệp cho đến thương nghiệp, mở nông hội và thương hội để nâng cao đời sống về kinh tế, truyền bá chữ Quốc Ngữ đề xướng chủ thuyết Dân Quyền, được hoan hô đón nhận. Các nhà Nho như cụ Phương Nam, Đổ Chân Thiết, Lương Trúc Đàm (1879-1908) là những người tìên phong cắt tóc ngắn và ăn mặc Âu phục với hàng nội hóa.
Ông ích Đường (1884-1908) cháu nội Ông Ích Khiêm hướng dẫn Phan Chu Trinh lên Yên Thế thăm lảnh tụ Hoàng Hoa Thám (1858-1913). Về Hà Nội gặp các ông Lương Văn Can (8) Nguyễn Quyền (9) hai người nầy có công mở trường Đông Kinh Nghiã Thục.
Xuất ngoại lần thứ nhất
Cuối tháng 3 năm 1906 trốn đi sang Hồng Kông. Nhờ vào đường giây của Phong trào Đông Du (1906-1908) Tăng Bạt Hổ (10) người có công đầu dẫn đường cho các nhà cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu và các đồng chí khởi xướng phong trào đưa du học sinh sang Nhựt .Trên tàu các Cụ gặp Lý Tuệ (11) làm việc đầu bếp giúp đỡ, từ đó Phan Chu Trinh được. Lý Tuệ dẫn đường xuống tàu cải trang làm bếp đi Hồng kông gặp Phan Bội Châu (1867-1940), Cường Để (1882-1951 là cháu 5 đời vua Gia Long). Cùng nhau sang Quảng Châu thăm Lưu Vĩnh Phúc, Nguyễn Thiện Thuật ( ?-1841), Lương Ngọc Quyến (1890-1917 .
Tháng 5-1906 cả 3 người đến Hoành Tân (Yokohama) và Đông kinh (Tokyo), trong thời gian lưu lại Nhựt, cụ nhìn thấy nước Nhật hùng mạnh nhờ biết thay đổi chính sách cai trị duy tân của Minh-trị-Thiên-Hoàng (1852-1912 Mutsu Hito). Nước Nhật trỡ nên hùng mạnh thắng Trung Hoa năm 1895 đưa đến việc hai bên kỳ kết hoà ước Shimonoseki (Hạ Quan) ngày 17.04.1895. Nhật đánh bại quân Nga tại Tsushima (Đối Mã ) năm (1904-1905).
Phan Chu Trinh gặp giới chính khách Nhật, như Khuyển Dưởng nghị ( Inukai ki 1855-1932) Đại Ôi Trọng Tín ( Okuma shigonebu 1838-1922 ) nhưng nhận thấy chính sách người Nhật không thật tình giúp đỡ Việt Nam..từ đó xét thấy dân tộc Việt Nam nếu không được khai hóa thì không thể canh tân xứ sở….
Tư tưởng hai nhà cách mạng họ PHAN rất tiếc không tương đồng. Phan Bội Châu với khuynh hướng bạo động, duy trì chế độ Quân chủ trông cậy vào Nhật để chống Thực dân. Ngược lại Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động tân dân , không chấp nhận chế độ quân chủ, muốn khai thông dân trí thì phải cải-cách, muốn có Nhân-quyền thì phải chấm dứt chế độ Vua quan bù nhìn Nam triều.
Chủ trương dựa vào nước Pháp để khai hoá dân tộc tiến bộ , làm cuộc cách mạng văn hoá, khi đất nước mạnh có thể đấu tranh dành lại độc lập, tiết kiệm xương máu. Nếu dựa vào nước Nhật để chống Pháp có tránh được việc.“ đuổi con hổ ra cửa trước,rước con Gấu vào ngõ sau chăng?”
Tấm gương Đại hàn bị Nhựt đô hộ còn đó. Hiệp ước Pháp và Nhật ký ngày 10.07.1907 người Pháp nhường cho Nhật một số quyền lợi. Pháp yêu cầu chính phủ Nhật bắt những nhà Cách mạng Việt Nam chống Tây , giải tán và trục xuất du học sinh tại Nhật. Tháng 8 năm 1908 trục xuất hàng trăm thanh niên tuấn tú, nhiệt thành yêu nước ra đi với mộng ước ngày trỡ về xây dựng lại Quốc gia, bổng nhiên sa vào cảnh bơ vơ không nơi nương tựa , nhiều người phải chạy sang Trung Hoa
Năm 1909 Phan Sào Nam cũng như Cường Để cùng chung một số phận phải chạy trốn sang Trung hoa. Đến tháng 10/1910 chính phủ Mãn thanh Khủng bố các nhà Cách mạng Trung Hoa. Cường Để và Phan Sào Nam phải một lần chạy trốn sang Thái Lan.
Đệ nhị thế chiến 9-3-1945 Người Nhật lộ hẳn sự phản bội dân tộc Việtnam .Quan niệm tinh thần ông anh cả da vàng , tiêu tan ra mây khói
Trước khi trỡ về Việt Nam tâm sự với Phan Bội Châu “ Xem dân trí Nhật rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già .Giờ bác ở đây, nên lo chuyên tâm ra sức vào việc văn ,thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc mắt dui còn việc mỡ mang diù dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh.lưỡi tôi đang còn, người pháp chẳng làm gì tôi được mà lo “ .
( Phan Bội Châu Ngục trung thư trang 50 )
Trỡ về nước hoạt động
Đường lối đấu tranh hai người chí sĩ khác nhau, nhưng cùng tình yêu Tổ quốc đồng bào Phan Chu Trinh về nước công khai đấu tranh bất bạo động. Chính sách cai trị của chính phủ bảo hộ chỉ bần cùng hoá ngu dân không thực lòng khai hóa dân tộc Việt Nam. Một số tay sai làm giàu trên xương máu
Cụ viết thư dài ngày 15-08-1906 gọi là “ Phan Chu Trinh đầu thư cho Pháp”. Gởi cho toàn quyền Paul Beau và khâm sứ Trung kỳ Fernand Lévecque. Thư trình bày hòan cảnh bi đát nhất của nhân dân dưới chính sách cai trị , những tệ trạng của quan lại Nam triều
1/ Chính phủ bảo hộ dung dưỡng cho bọn quan lại An nam để gây nên tệ lậu
2/ Chính phủ bảo hộ khi thị dân Việt Nam thái quá, khiến cho đôi bên phải xa cách
3/ Quan lại nhân cái sự ly gián ấy mà hành hạ dân
Phan Chu Trinh ghé thăm Lương Văn Can nói về tình hình nước Nhật, tháng 3 / 1907 tại phố Hàng Đào Hà Nội các sĩ phu Bắc Kỳ ngồi lại với nhau. Cụ Phan đề nghị mở trường dạy học tại Quê nhà, ý kiến nầy được chấp thuận , lấy tên trường là Đông Kinh Nghĩa Thục “ tương tự như Khánh ưng Nghiã-Thục của Phúc-Trạch ở Nhật “ xin giấy phép mở trường, chủ trương không lấy tiền học phí, mọi người tự nguyện bỏ công, bỏ tiền, tài sản ra thành lập. Ngày khai giảng thu nhận học sinh đông đảo,
Bỏ lối học từ chương, chú trọng thường thức và thực nghiệm dạy theo phương pháp giáo dục mới, chương trình dạy chữ Quốc Ngữ , chữ Hán và Pháp Văn. Phạm Đình Đối dạy môn toán học thật mới mẽ. Thành phần giảng dạy của Đông Kinh Nghiã Thục Với những nhà Nho và Tân học: Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hoàng Tăng Bí, Phan Huy Thịnh, Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Đặng Kinh Luân, Nguyễn Hửu Cầu..vv,
Lương Văn Can làm Thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám học.. Phan Chu Trinh không giử vai trò nào vì cụ cần trỡ về miền Trung vận động tiếp cho Phong trào Duy Tân.
Trường Đông Kinh Nghiã Thục truyền bá văn hóa nước nhà, tạo tình thần ái-quốc. Trong trường có một số nhà Nho như Lương Trúc Đàm, Dương Bá Trạc. Đổ Chân Thiết.. hoạt động ngầm cho phái bạo động (Phan Sào Nam). nhiều cụ qúa hăng hái giảng dạy kêu gọi lòng yêu nước, đưa đến chủ trương chống chính sách thuộc địa.
Thực dân Pháp nghi ngờ cho mật thám theo dõi ngày đêm, tịch thu giấy phép giải tán trường học vào tháng 11/1907. Khép tội Đông Kinh Nghiã Thục là lò phiến loạn ở Bắc Kỳ, đóng cửa luôn tờ (Đăng cổ Tùng báo) cấm lưu hành tàn trữ sách vở .Giáo viên và những người trong tổ chức bị nghi ngờ, chờ cơ hội khác để kết án, bỏ tù hoặc đày ra côn đảo..
Tại Quảng Nam xảy ra chia rẽ với người theo Đạo Thiên Chúa giáo. Phan Chu Trinh kêu gọi toàn dân đoàn kết với nhau. Những hiểu lầm với người theo Đạo Thiên Chúa Giáo . “Tây là Đạo”, “Đạo là Tây” nên “thù Tây” thì “ ghét Đạo” “Bình tây sát tả ” chỉ gây thêm cảnh khổ đau cho dân tộc có lợi cho thực dân.
Phan Chu Trinh đến tiếp xúc với các vị lãnh đạo Tôn giáo các cha Xứ người Pháp kêu gọi họ giúp đở để khai hóa con chiên Việt Nam. Lần đầu tiên trong đấu tranh sử nước nhà, giữa Lương- Giáo được hòa giải đoàn kết sát cánh bên nhau với Phong trào Duy Tân. Tại làng Phước Kiều (Duy Xuyên) có một cơ sở giáo dục do một vị nhà dòng dạy học và có cơ sở chế biến kỷ nghệ đồ đồng rất tinh xảo như một nghề gia truyền cho đến ngày nay.
Phong trào Duy Tân giúp dần dần Dân trí được mở-mang mạnh mẽ., Nhiều người hưởng ứng nổi bật nhất , Lê Cơ ( sinh năm 1859 tại Phú lâm thi rớt tú tài, con cô cậu với Phan chu Trinh.)
Người dân tiến bộ khắp nơi trên các nẻo đường đất nước, hưởng ứng phong trào cắt tóc ngắn đây là một thành công lớn của Phong trào Duy Tân. Muốn bỏ được một phong tục lâu đời rất khó. Tạo một phong trào hớt tóc mạnh mẻ có bài vè cúp tóc
Cúp hề ! Cúp hề
Tay mặt cầm kéo
Tay trái cầm lược
Cúp hề ! Cúp hề !
Đũng đỉnh cho khéo
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cá dại mày
Học theo ngườI tây
Hãy còn ăn mặn
Hảy còn nói láo
Phen nầy ta cúp
Phen sau ta cạo
Phong trào Duy Tân với chủ trương lâu dài, dân tộỳc được khai trí. Có những tiến bộ mau chóng, Người dân hiểu được quyền lợi các quyền tựỳ do như Dân Quyền và Nhân Quyền, mong muốn chính sách bảo hộ của người Pháp phải được thay đổi.
Dân chúng tiến bộ, nẩy sinh cuộc vận động đòi quyền sống bằng phương pháp bất bạo động của Phong trào Duy Tân công khai dần dần lan rộng. bởi vì thực dân Pháp và tay sai đàn áp bóc lọt đánh thuế nặng , tất cả những tai hoạ của xả hội trong giai đoạn nầy phản ảnh qua những câu ca dao (***)
Đời ông cho đến đời cha
Đời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn hà đóng thuế vợ gầy con khô..
…từ ngày Tây chiếm Đế Đô
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi trời !!
Diển tiến cuộc biểu tình
Năm 1908 các điạ phương từ tỉnh Quảng Nam đến các tỉnh ( Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Hà Tỉnh, Nghệ An ) nổi lên phong trào kháng thuế xin xâu.
Lúc đầu xem như một cuộc vận động biểu tình bất bạo động, có một tầm mức quan trọng từ trước chưa xảy ra ở Việt Nam..Tại quận Đại lộc (11.03.1908) sau đó Điện Bàn rồi các nơi đều hưởng ứng tham gia biểu tình kháng Thuế, chống thực dân, chống tay sai, đòi hỏi dân quyền. Phong trào như làng sóng lên cao, phẩn nộ trong lòng người dân từ lâu bị đè nén tức nước vở bờ
Thực dân lúc đầu để Phong trào Duy Tân hoạt động quan niệm cứ để sĩ phu kêu gọi Duy Tân, theo Âu hóa càng sớm, càng mất dần dân tộc tính, càng dễ cai trị.
Không ngờ Phong trào Duy tân gây ảnh hưởng sâu rộng đưa đến đấu tranh chống thuế xin xâu, tức đụng vào cái thực chất quyền lợi của thực dân. Nếu không đánh thuế vào dân, lấy tiền đâu nuôi đòan quân viễn chinh, bộ máy cai trị tại Việt nam , đem tiền bạc về cho nước Pháp.
Thực dân và tay sai quyết đập tan Phong trào Duy tân, dùng bạo lực súng đạn đàn áp bắn giết Đồng bào tham gia kháng thuế trên tay không vũ khí. Kết án ngọn lửa đấu tranh ấy phát xuất từ Phong trào Duy Tân. Đồng thời ngoài Bắc xảy ra vụ Hà Thành đầu độc ngày 27.6.1908
Bọn thực dân ra lệnh tìm bắt bỏ tù hàng loạt từ miền Trung đến miền Bắc các sĩ phu có tình thần yêu nước như : Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Châu Thượng Văn, Nguyễn Thượng Hiền, Lê Cơ , Phan khôi ,Tiểu la Nguyễn Thành vv. Nhà tù Côn đảo cũng như Lao Bảo giam đầy các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Các Phong trào Văn Thân, Cần Vương bị dẹp tan.
Giai đoạn nầy với chính quyền thực dân được xem như ổn định. Nhưng không dập tắc được lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam. Nhất là thế hệ trẽ năm 1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng và tiếp tục chống thực dân cho đến ngày dành lại được độc lập.
Những người bị xử chém trong cuộc đấu tranh taị Quảng Nam gồm có Trần Thuyết (ngày 8-4 tại Tam Kỳ), Ông Ích Đường ( ngày 24-4 tại Túy Loan), các ông Nguyễn Cang , Nguyễn Dực , Phan Tham, Trần Phước, đều bị chém tháng 5 tại Duy Xuyên .Máu của họ đổ ra tô thắm thêm những trang đấu tranh sử oai hùng của nước nhà. Phong trào xin thuế bị dẹp tan vì thiếu tổ chức không có người chỉ huy tổng quát.
Trong giai đoạn nầy Trần Qúy Cáp ( làm giáo học tại Khánh Hoà ) bị Bố chánh Phạm Ngọc Quát bắt (16.04 ) đổ tội cho cụ Trần xách động và đồng lỏa với Phong trào kháng thuế xin xâu. Bản án dành cho Trần Quý Cáp thật mờ ám và ác nghiệt đó cũng là chủ trương của chế độ thực dân, giết hết các người yêu nước chống lại chế độầ .Giết Phan Chu Trinh không được lần nầy phải giết gấp Trần Quý Cáp ..bởi vì Trần Quý Cáp viết gởi cho Phan Thúc Duyên có câu ( Ngô dân thử cử khoái khoái khóai = dân ta làm thế sướng …) Cụ vui mừng quê nhà có biểu tình đấu tranh chống thuế xin xâu . Cụ bị bắt và tuyên án xử chém ngang lưng tại Khánh Hoà. Mãi đến năm 1924 Trần Quý Cáp được khai phục phẩm hàm, nhưng ông đã về bên kia thế giới vĩnh hằng. Nhưng Trần quý Cáp vẫn còn lại trong lòng mọi người, một danh nhân của xứ Quảng ( có một chủ đề riêng về Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng )
Những hoạt động của Phan Chu Trinh công khai làm cho người Pháp rất lo ngại. Louis Bonhoure toàn quyền Đông Dương (28.02.1908-23.09.1908) nhận xét Phan Chu Trinh không tỏ ra bạo động như Phan Bội Châu nhưng nguy hiểm hơn cho sự thống trị của ngưới Pháp
Đấu tranh chống thuế bùng nổ tại Quảng Nam. Công sứ Lévecque yêu cầu thống sứ Bắc kỳ Joseph de Mirabel bắt Phan Chu Trinh vào (10.04.1908) tại Hà nội giải về Huế giam ở toà Khâm sứ, ( khu vực trường Đại học sư Phạm trước 1975) người Pháp bề ngoài văn minh nhưng chẳng hơn gì triều đình Huế về những điều hủ bại
Cụ phản đối chính phủ Pháp kiệt thực 7 ngày, khâm sứ Lévecque là một con cáo già thực dân ném đá dấu tay , muốn giết Phan Chu Trinh, trã cụ cho Cơ mật Viện để toà An Nam xét xử. Nếu xét theo luật Gia Long điều 223 tội nhân bị ghép làm loạn xách động.. bị xử trảm.
Các quan lại Nam triều vốn ghét, vì Phan Chu Trinh phê phán chế độ quân chủ làm tay sai, Nam triều lấy cơ hội nầy lên án tử hình, nhưng ở Hà nội cụ Phan chơi thân Babut Ernest Chủ nhiệm tờ Đại Việt Tân Báo và có chân trong Hội Nhân Quyền Ligue des Droits de L’Homme .
Được Babut Ernest tận tâm can thiệp lên thẳng phủ Toàn quyền xin tái thẩm vụ án. yêu cầu chính phủ Pháp can thiệp giảm án..không tử hình đổi lại án chung thân khổ sai đày ra Côn đảo
Cụ Phan phẩn nộ trước bản án và nói « một dân tộc nào có người tù về quốc sự, như thế thì dân tộc ấy càng thêm vẽ vang. Một dân tộc không có người ở tù về quốc sự thì cái dân tộc ấy là khối dân tộc vô hồn thôi «
Vào ngày 4/4 /1908 bị đày ra Côn lôn cụ cũng ra khẩu chiếm một bài thơ
Ra cửa thành nam mang xiềng rột rạt
Còn lưỡi này ta hát ta ca
Dân hèn nước cũng tiêu ma
Chi còn chả sợ nữa là côn lôn
Những năm ở côn đảo có lúc cảm xúc cho thân phận , man mác lòng cố quốc. Cụ cũng làm thơ cho quên nổi sầu đi tù xa xứ. dân tộc với những nổi đau dưới gót giày đinh của thực dân dẩm nát Quê hương
Đi đập đá
Làm trai đứng giữa đất Côn lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào sá sự con con
***
Biển dâu dời đổi mấy thu đông
Cụm núi Côn lôn đứng vững trồng
Bốn mặt dày vò oai sóng gió
Một mình che chở tội non sông
Cỏ hoa đất nẩy cây trăm thức
Rồng cá trời riêng biển một vùng
Nước biếc non xanh thương chăng nhẻ
Gian nan xin hộ khách anh hùng
Thơ cụ Phan viết về những lãnh vực bối cảnh xã hội, dùng ngoài bút diễn tả trực tiếp đời sống trong lòng Dân tộc.
Thử xem trước mắt người thiên hạ
Đệ nhất nhà quan ,nhị chủ điền..
Biết lấy chi chi trả ái ân
Phần thì làng bắt nộp công ngân,
Đá vàng trơ đấy khôn rồi nợ
Tiền bạc vơ đâu để rảnh thân
Ngãi mẹ ,ơn cha trời đất nặng
Bán con đợ vợ tháng ngày lần
Đắp đàng, đào suối, bòn vàng mỏ
Khuân khỏa vì ai khổ kiếp dân
Nhớ vợ thương con dạ nặng trì
Lên non còi túc lệnh đòi đi
Ba quân hiệu giáp nghe vang cả
Hai mối tình sâu dễ sá chi.
Cuộc đời Phan Chu Trinh gắn bó với công cuộc cách mạng để khai trí dân tộc, nhưng bên cạnh đó còn để lại những tác phẩn văn chương
Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca (1907)
Tuồng Trưng nữ Vương soạn chung với Hùynh thúc Kháng,Phan thúc Duyên (1910)
Trong thời gian sống ở Paris và về nước viết các tác phẩm
Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Định Hoàng Đế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Đông (1925)
Đông Dương Chính trị luận (1925)
Phan Chu Trinh bị đày ra Côn đảo được báo chí Hội Nhân Quyền thân oan và vận động được tự do, chính phủ bảo hộ nhận thấy dư luận trong cũng như ngoài nước, Muốn ngăn ngưà bớt phẩn nộ của sĩ phu Việt Nam. Chính phủ bảo hộ cữ vị Thống đốc Nam Việt ra Côn đảo thẩm vấn cụ Phan, cho về lại Mỹ Tho.Thủ tướng Pháp ông Poincaré ký lệnh tha. Quan Toàn quyền Đông pháp ông Klobukowsky (1908-1911) cùng Tổng trưởng bộ thuộc điạ Trouillot cùng các quan khác tại Sàigòn xét án và ân xá.
Tuyên báo trã tự do nhưng vẫn bị quản thúc tại Mỹ Tho. Cụ nhất định không chịu phản đối đến cùng. Chính phủ Pháp phải nhượng bộ cho tự do hoàn toàn. Ở Mỹ Tho một thời gian thấy tinh thần đồng bào ở Nam Việt lụn bại hơn đồng bào ngoài miền Trung và Bắc. Cụ phải ngậm ngùi cho trình trạng dân tộc bị đô hộ
Xuất ngoại lần thứ 2
Năm 1911 Phan Chu Trinh theo Toàn quyền Klobukowsky sang Pháp, cụ biết trước các sĩ phu Việt Nam yêu nước sẽ xúc động mạnh, nghe tin cuộc cách mạng Tân Hợi 19 / 08 / 1911 Trung Hoa lật đổ được chính thể chuyên chế, bước sang chế độ Dân chủ, tại Việt Nam những sĩ phu yêu nước sẽ tiếp tục nổi dậy chống Pháp dành độc lập. Không tránh được cảnh chiến tranh, gây thêm khổ đau, vốn cụ chủ trương Pháp-Việt đề huề xem như một nền tảng tư tưởng dân chủ xây dựng Việt Nam.
Sử sách thế giới ca tụng Mohandas Karamchand Gandhi (1867-1948) đấu tranh bất bạo động với người Anh dành độc lập cho Ấn Độ .Nhưng nước Việt Nam nhỏ bé thời ấy nhà cách mạng Phan Chạu Trinh , đấu tranh dành độc lập với thực dân Pháp bất bạo động đi trước Gandhi !!
Cụ Phan nói :” không nên trông người ngoài trông người ngoài là ngu. không nên bạo động, bạo động là chết .Tôi chỉ có một lời để nói với đồng bào, không gì bằng học..vv. Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể làm được”
Thời gian tại Paris người cụ phải học nghề rưả hình và nuôi con trai là Phan Chu Dật theo học Trung học. Bên quê nhà còn vợ hiền với 2 người con gái Phan thị Châu Liên sau nầy có chồng là Ông đốc học Lê Ấm ( trước 1975 ông bà Lê Ấm ở tại nhà Thờ cụ Phan gần ngã năm Hoàng Diệu Đà nẳng, và Phan thị Châu Lan có chồng ông Kinh lý Nguyễn Đồng Hợi. ( bà Nguyễn thị Bình Bộ trưởng sau 1975 là con gái của ông Nguyễn Đồng Hợi)
Sang đến Paris cụ Phan viết bản điều trình, để thuật lại lý do và các biến cố sự đàn áp của chính quyền , những người yêu nước bị kết án tù đày
Khâm sứ Mahé muốn đào lăng vua Tự Đức (1913) tìm vàng, cụ viết báo cực lực phản đối việc làm không Đạo-đức . Cụ Phan đi diễn thuyết trong tập thể Kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về Quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân-đạo, bác-ái bày tỏ nổi lòng và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Đông Dương
Việt nam được Pháp bảo hộ nhưng không có tự do, các nhà Cách Mạng Việt nam nếu chống đối về chính sách cai trị tàn bạo, bóc lột của chính phủ đều bị bắt bỏ tù. Cụ viết “ Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Ký …” được Jules Roux dịch sang Pháp văn. Tài liệu nầy binh vực, kêu oan cho Trần Quý Cáp và những oan ức của người Việt bi áp bức gây dư luận tại Paris ..cũng như gởi cho Albert Sarraut sẽ sang làm toàn quyền tại Đông Dương .
Các Quan lại ở bộ thuộc điạ và coi về Đông Pháp nghi ngờ việc làm của cụ Phan trên đất Pháp . Phan Chu Dật trước được học bổng , nhưng sau đó họ bỏ học bổng, gây cho đời sống Cha con cụ Phan càng khó khăn hơn. Có những ngày cụ Phan ra ngoài chợ lượm củ cải người ta bỏ đem về ăn, mua các ruột heo, bò, rẽ tiền để sống. Không một lời than, không muốn lệ thuộc đồng tiền mua chuộc của kẻ khác, Cụ sống với một lý tưởng cao đẹp “Phú qúy không tham lam, nghèo khổ không thay đổi lòng dạ, sức mạnh không khuất phục”.
Vào tháng 9/1914 chiến tranh Đức Pháp bùng nổ. Đức tổng tấn công mặt trận La Somme. Bên Quê nhà vua Duy Tân (Vĩnh San) nổi dậy chống Tây ngày 6-5-1916 thất bại bị truất phế đày sang đảo Réunion….Cụ Phan từ lâu bị tình nghi liên hệ với Đức chống lại Pháp bị bắt giam vào ngục Santé ( Prison de la Santé ) vào tháng 08 năm 1914
Cụ bị nghi oan ngồi tù, Được các ông Marius Moutet, Jules Roux là bạn thân bênh vực, cãi với viên đại lý tòa án binh Đệ nhất tại Paris. Mãi đến tháng 7-1915 chính phủ Poincaré trã tự do
Trong thời gian bị tù lúc đó Phan Chu Dật đậu xong Tú tài, rời cha trỡ về nước và chuyến đi cuối cùng định mệnh đã an bài .Về đến quê nhà bị bệnh mất . Cụ ra tù sống trong cô đơn nổi buồn vì mất con. Song cố sống trong nhiệm vụ cho trọn tình trọn nghiã với non sông đồng bào.
Nước Pháp tổ chức cuộc đấu xảo quốc tế (triễn lãm) ở Marseille vào năm 1922 Vua Khải Định (1916-1925 tức Bửu Đảo) sang tham dự , lối phục sức cho đến việc tiếp xúc ngoại giao những điều chướng tai gai mắt. Cụ viết bằng chữ Hán gởi đến Vua Khải định “ ký Khải Định Hoàng Đế Thư “ ngày 15-7-1922 kể bảy tội của Vua là : “ Tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự qùy lạy, xa xĩ qúa độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi có ám muội ”. Được đăng tải rộng rãi trên báo chí Tây và Việt Ngữ, gây một dư luận rộng lớn trong quần chúng. Vua Khải Định nhận thư về nước chẳng bao lâu rồi cũng trỡ về với cát buị
Ngày 29.05.1925 Phan Chu Trinh xuống tàu Fontainebleau sau một tháng đến ngày 26.06.1925 về Sài Gòn, chưa kịp về thăm lại xứ Quảng. Cụ lâm bệnh viêm lỗ mũi và biến chứng qua phổi. vì hơn nửa đời gian khổ, tù tội sức khoẻ bị suy kém. Nhưng cố gắng diển thuyết thêm hai đề tài
Đạo đức và luân lý Đông tây
Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ nghiã
Bài diễn văn cuối cùng Phan Chu Trinh nói chuyện taị Hội Thanh Niên Sàigon “ tôi nghĩ rằng vì cái độc quân chủ nó giết hẳn cái lòng ái quốc của dân tộc Việt nam ta.. Nói theo đạo Nho đó kỳ thật không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn sót lại một hai điều trong gia đình mà thôi. kỳ dư là những điều mấy ông Vua chuyên chế đựa vào đạo Nho để đè nén dân.”
Bài Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây Cụ Phan nói “ Xem như thế thì xưa nay nước ta không có quốc gia luân lý, chỉ có một cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo. Vua với dân không có luân lý gì dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ cuả vua hiệp lại với nhau lấy sức mạnh để đè lên dân mà thôi .. Nay muốn một ngày kia nước Việt nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt nam phải đoàn kết..”
Ngày 24-3-1926 lúc 21 giờ 30 đêm Phan Chu Trinh mất hưởng thọ 55 tuổi linh cử được quàn tại số 54 đường Pellerin. Đám táng được một số đại diện thân hào nhân sĩ tại Sàgòn tổ chức cữ hành theo nghi thức Quốc tang
Đủ mặt mọi thành phần: Sĩ-Nông-Công-Thương các Đảng phái Chính trị và Tôn giáo tham dự, đưa linh cửu Phan Chu Trinh đến nơi an nghĩ cuối cùng 6 giờ sáng ngày 4-4-1926 tại nghiã điạ của hội Gò Công Tương Tế
Hàng ngàn câu đối, trướng, la liệt bàn phúng điếu. Các vị Sư tu trên núi cao gởi mấy câu đối để tưởng nhớ
– “ Tiên sinh thật là vị cao tăng trong giác thế, gồm đủ từ bi và trí huệ
Người đời sau ngưỡng trông tòa pháp Cộng Hòa biết bao nhiêu công đức như cát sông Hồng Hà ”
– “ Hai mươi năm trống sớm chuông chiều, khua tỉnh ái hà con ma chuyên chế
nhìn muôn dặm mưa dòn gió dập, kêu gọi người ngủ mê trong biển trần”
Phan Bội Châu đang được an trí ở Huế thay mặt cho đồng bào Huế gởi 2 câu đối
“ Thương hải vi điền, Tinh vệ hàm thạch”
“Chung Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền “
Phan Chu Trinh , tranh đấu bất bạo động cho Dân Quyền. Phong Trào Duy Tân đã làm thay đổi Lịch Sử Việt Nam dưới thời thuộc điạ, từ đó người Pháp cũng phải thay đổi chính sách cai trị. Phan Chu Trinh một vì sao sáng trên vòm trời Việt nam của đầu thế kỷ 20
“Chủ trương chính trị của Phan Chu Trinh có thể được xem là nền tảng của hệ tư tưởng dân chủ Việt nam ngày nay .Trước Phan Chu Trinh, tại Việt nam chưa có ai nghĩ đến dân chủ, dân quyền..Chẳng những Phan Chu Trinh là người đầu tiên thổi một luồng gió mới vào chính trường Việt nam, Ôngỳ cũng là người Việt nam đầu tiên gây được uy tín lớn lao với chính trường nước Pháp là nước đang đô hộ Việt Nam.” sử gia Trần Gia Phụng sđd Quảng Nam trong lịch sử trang 226.
Phan Chu Trinh sống phục vụ Quê hương, cống hiến cuộc đời cho Tổ quốc Việt nam Chết để lại tấm gương sáng cho nhiều thế hệ noi theo. Dân Quyền và Nhân Quyền là những giấc mơ của toàn dân Việt nam ./.
Tiểu sử các người liên hệ đến Phong trào Duy Tân
(**) theo Sử gia Trần Gia Phụng viết trong tác phẩm Quảng Nam trong lịch sử trang 211 . Cụ Bình có người con trai nuôi tên là Vò, cùng bị giết với cha tại Mỹ Lý .tài liệu qua con gái Phan Thị Châu Liên. / Nhà văn Nguyễn Văn Xuân trong cuốn Phong trào Duy Tân trang 39 cụ Bình bị chặt đầu cắm bên lề đường người đội thân tín đi theo đã tự sát chết theo ? Dù sao Cụ Bình đã ra người thiên cổ !! Hy vọng con cháu họ Phan bổ túc thêm tài liệu.
1/ Nguyễn Duy Hiệu hay Hường Hiệu (1847-1876)
Tại xả Thanh Hà huyện Duyên Phúc Quảng Nam đậu Cử Nhân năm 1872 Phó Bảng năm 1879 hàm Hồng lô tự Khanh nên gọi là Hường Hiệu Ông từng dạy vua Kiến Phúc (1883-1884) khởi nghiã chống Pháp năm 1885 Bị giết năm 1887 lời nói bất hủ trước khi ra đầu thú ” ta chết không đủ tiếc, nếu sau nầy có ai nối chí ta thắng được giặc ấy là ta vẫn sống “
2/ Nguyễn Lộ Trạch (1843-1898)
Tên chữ là Hà Nhân , hiệu là KỳÔ Am , Người làng Kế Môn tỉnh Thừa Thiên con của tiến sĩ Nguyễn Thanh Oai .Nguyễn Lộ Trạch học giỏi nhưng không thi cữ Thời vụ sách là những điều trần lên vua Tự Đức đề nghị canh tân đất nước
3/ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)
Tại làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, hiệu là Minh Viên, có nhiều bút danh khác nhau: Sử bình Tử, Tha sơn Thạch, Ngu Sơn .. Năm 1900 đỗ Giải Nguyên ,Năm 1904 đỗ Hoàng Giáp, Không ra làm quan
4/ Trần Qúy Cáp (1870-1908)
Thôn Thái La, xã Bất Nhị huyện Điện Bàn, tĩnh Quảng Nam Tự Dã Hàng, Thích Phu hiệu Thái Xuyên, còn có tục danh Trần Nghị Năm 1904 đỗ tiến sĩ,
5/ Lê Bá Trinh (1875 – 1918)
Người làng Hải Châu đậu cữ nhân năm 1900 không ra làm quan tham gia Phong trào Duy Tân bi dày ra Côn đảo 1908
6/ Phan Thúc Duyệïn (1868-1936)
Xả Phong Thử, huyện Diên Phước, Điện Bàn bạn đồng khoa Cử Nhân năm 1900 với Huỳnh Thúc Kháng và Phan Chạu Trinh bị bắt năm 1908 đày ra Côn đảo vì hoạt động cho Phong trào Duy Tân .được trã tự do 1919
7/ Ngô Đức Kế (1878-1929)
Hiệu Tập Xuyên người Làng Trảo Nha tỉnh Hà Tỉnh ba đời đậu Tiến sĩ bị bắt đày ra Côn đảo năm 1921 được tự do làm chủ bút tờ Hữu Thanh
8/ Lương Văn Can (1839-1929)
Làng Nhị Khê (quê Nguyễn Trãi) Hà Đông năm 21 tuổi Cữ nhân .triều đình bổ làm giáo thụ Phủ Hoài, từ chối không nhận chức ở nhà dạy học.
9/ Nguyễn Quyền (1869-1941)
người làng Thượng Trì , Bắc Ninh đậu Tú Tài làm huấn đạo Lạng Sơn
10/ Tăng Bạt Hổ tên thật Lê Thiệu Hổ (1858- 1906)
sách sử đều ghi là Tăng Bạt Hổ, người làng Anh Thường xã An Thạnh huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định tham gia phong trào Cần Vương năm 1885 dưới quyền Mai Xuân Thưởng. Phong trào bị thất bại năm1887.Ông trốn qua Thái Lan Trung Hoa về nước lần cuối cùng năm 1906 bị bệnh kiết lỵ bất ngờ và chết tại nhà Ông Vỏ Bá Hạp và được mai táng tại gò Cồn khê ấp Thế Lại Thượng huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên sđd ( Những câu chuyện lịch sử Trần gia Phụng trang 280 ).
Tăng Bạt Hổ trốn qua Thái lan rồi qua Trung Hoa tìm Lưu Vĩnh Phúc. Sau khi Ông Phúc chết, cụ Tăng xin làm thủy thủ một tàu buôn, cụ thườợng qua Hoành Tân, Trường Kỳ được it năm nói thông tiếng Nhựt, đầu quân vào đôị thủy quân Nhật. Trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật cụ nổi tiếng can đảm, có công trong trận Đài Liên Lữ Thuận ( Lu Shun) được Nhật khâm phục và thưởng huy chương quân công.
Ngày Khải hoàn được dự bửa đại yến do Nhật Hòang đải các Tướng sĩ.. Tăng Bạt Hổ được tham dự, Nhật Hoàngỳ rót ngự tửu thưởng , uống xong cụ khóc lớn giữa triều đình ..và trình bày nay thấy qúy quốc thắng Nga làm vẽ vang cho giống da vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh đất nước tôi, không cầm được giọt lệ..Nhật Hòang khen cụ người có lòng ái quốc..Được mọi người có cảm tình với cụ. làm quen với các chính khách Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại ôi Trọng Tín.. khuyên Cụ “ trước hết các ông phải lo phát triển phong trào duy tân trong nước, để nâng cao dân trí, cho đại sự dễ thành. Muốn duy tân, không thể trông cây ở Pháp vì Pháp không thật sự khai hoá , nên phải lựa những thanh niên ưu tú đưa qua đây ,nước chúng tôi sẽ đào tạo “. Khuyễn Dưỡng Nghị hưá tận lực giúp đỡ cho các học sinh Việt Nam được phép cư trú theo học miễn học phí .
Cụ Tăng xét lời khuyên đó hữu lý, nên xin phép chính phủ Nhật về nước tới Hải Phòng cuối năm 1904. sau đó vào Quảng Nam gặp tiểu La Nguyễn Thành giới thiệu với cụ Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, năm sau 1905 đưa cụ Phan Bội Châu qua Nhật để cầu viện.
( nhà văn Hiến lê viết Trong Đông kinh nghiã Thục trang 30)
(11) Lý Tuệ tên thật Nguyễn Hữu Tuệ (1871-1938)
Trên đường sang Hong Kong lần đầu tiên vào tháng giêng năm ất tỵ 1905 Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ làm quen với Lý Tuệ làm đầu bếp lo phục vụ cho khách ăn uống trên tàu Từ đó ông Lý Tuệ đã lo giúp tiền bạc , ngầm đưa du học sinh qua Nhật đóng góp hết sức tận tuỵ cho phong trào Đông Du. Về sau Lý Tuệ cùng em bị tù chung thân cho đến năm 1931 mãn hạn tù. Phan Bội Châu đưa ra nhận xét ( than ôi áo vóc đai vàng ,ở trong nước biết bao bọn ấy; mà nhiệt thành nghỉa khí té ra ở trong bọn nấu bếp mới được một người, cũng là một việc đáng truyền vậy.
Lý Tuệ trước khi xuống tàu làm bếp Ông đã từng làm Lý trưởng ở một làng vùng quê ông là Hòa Bình nên thường gọi là Lý Tuệ .
Ngày 26-8-1938 Nguyễn Hữu Tuệ từ trần tại Hải Phòng Phan Bội Châu nằm chiêm bao có đi câu đối:
“Sống với giang san, chết với giang san, trong đám tro vàng mới qúy
Buồn vì chủng tộc, vui vì chủng tộc, trước hồn thấn thánh phách càng linh”
Phan bội châu toàn tập 5 trang 323
(***) Xem bài Quảng Nam qua ca dao “http://xuquang.com” cùng tác giả
Tài liệu tham khảo
Phong trào Duy Tân Nguyễn Văn Xuân Nxb lá Bối
Quảng Nam trong Lịch sử Trần Gia Phụng Nxb Non nước Toronto
Những câu chuyện lịch Sử tập2 Trần Gia Phụng Nxb Non nước Toronto
Từ Hi tháí Hậu Mộng Bình Sơn Nxb Xuân thu
Bộ Quân sử Bộ tổng tham mưu QĐ VNCH
Thành Thái người điên thế kỷ Thái Vũ Nxb văn Học
Đông Kinh Nghiã Thục Nguyễn Hiến Lê Nxb Lá Bố
Phan Chu Trinh Thế Nguyên Nxb Tân việt