Ca dao xứ Huế
Nguyễn Qúy Ðại, Munich
Ai về Xứ Huế cho ta nhắn
Thăm lại sông Hương núi Ngự Bình
Từ lúc tha hương nơi Đất Hứa
Nghìn năm thương nhớ chốn Thần Kinh
( Tâm Đạo)
Huế kiêu sa và quyền lực một thời vang bóng, nhưng Huế đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn lại di tích lịch sử và thi ca lãng mạn. Viết về thi ca, lễ, nhạc xứ Huế quá rộng và bất tận. Tôi chỉ tham khảo những nét chính qua thi ca bình dân. Ca dao truyền tụng từ đời nầy sang đời khác được phổ biến sâu rộng trong dân gian, mãi mãi trường tồn trong lâu đài văn hóa dân tộc
Xong trung học ra Đại học Huế, tôi có cơ hội tiếp xúc với phong tục đời sống, cảm nhận thi ca bình dân của Huế vào hồn. Kỷ niệm còn vướng đọng dư âm hơn 28 năm qua, nhớ về Huế mùa hè lắm ve sầu hót véo von, sông Hương nước trong xanh, lững lờ chảy về Thuận An, các đàn cá đối ung dung bơi lội tìm mồi. Hai bên bờ phượng vĩ nở đỏ rực, lộ hẳn trên nền trời trong xanh. Có lẽ đúng đất Thần kinh thơ mộng, nên thi ca bình dân phong phú, lãng mạn . Các điệu hò trên sông Hương trong những đêm trăng đẹp, đã làm rung động lòng người lữ khách.
Đến Huế để nhìn lại những cung điện, đền đài, lăng tẩm, ăn các món ăn đặc sản .. chưa đủ , nhưng nếu nghe tiếng hát ru con qua ca dao, các giọng hò trên sông Hương, như vậy mới gọi là thưởng thức trọn vẹn được cái hay, thơ mộng của Huế.
Thi ca bình dân gợi lại dư âm, cái uy nghi của Kinh đô, Từ cửa Ngọ Môn cao vời vợi có lầu Ngũ phụng uy quyền qua các triều đại đến Điêïn Thái Hòa nơi thiết-đại-triều giờ đây vắng bóng người.. Thời xa xưa người Việt dùng loại đèn chai đốt sáng, đã biến mất theo sự phát triễn khoa học, đèn điện sáng tiện lợi, nhưng không tạo được nét huyền ảo trong những đêm trăng non ở Huế .
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng
Ai ơi chớ phụ đèn chai
Thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Người xưa tạo lập để công hầu vô ra.
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh,
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, không hỏi chốn kinh thành làm chi !
Huế đất không rộng nhưng có chợ Đông Ba trước có tên là Đông Phước thay đổi vài lần , năm 1899 dời ra phố Tràng Tiền cho đến ngày nay, chùa Diệu Đế ở đông ngạn sông Đông Ba, Thiên Mụ….. các di tích dù bị tàn phá bởi chiến tranh, thiên tai được trùng tu, những địa danh gắn liền với lịch sử, và phong tục.
Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u. (1)
Đông Ba , Gia Hội hai Cầu
Ngó lên Diệu Đế trống lầu gác chuông
Bến chợ Đông Ba, tiếng gà eo óc
Bến chùa Thọ Lộc, tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương giợn sóng khuynh thành
Theo tương truyền năm 1601 chúa Nguyễn Hoàng đến đây thấy phần đất thiên, cảnh đẹp, trước có sông sau là hồ, dựng nên chùa Thiên Mụ, mãi đến năm 1710 chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông nặng 3285 cân ta, tiếng chuông ngân vọng ra xa, bên kia sông là làng Long Thọ Xương , có tiếng gà gáy ó o
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Huế đẹp thơ mộng, từ Đà nẳng ra trước khi đến Huế thấy núi Ngự Bình nhìn phía trước tròn nhưng sau hơi méo, cây cối không cao nhưng có nơi chim cu đứng gáy. Bến đò nằm trên đường Huỳnh Thúc Kháng, dưới cầu Gia Hội những chiếc đò nhỏ có mái cong.. Nếu khách bộ hành đi ngang qua đó sẽ được mời gọi. Muốn thưởng thức vẽ đẹp Hương giang, thuê thuyền đi trên sông, với gió mát, vẽ đẹp của thiên nhiên mây nước..đi vào thế giới yên tĩnh, tâm hồn thỏa mái nghe vọng lại tiếng hát cung đàn của ai đó ?
Thuyền ai lơ lửng trên sông,
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Để ta kết ngãi nối duyên
Trai anh hào gặp được thuyền quyên còn gì ?
Thuyền ai trôi trước cho em lướt tới cùng ,
Chiều đã về, trời đất mông lung,
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng đêm sương.
Núi Ngự Bình mơ màng trăng gió
Niềm tâm sự ai thấu rõ cho mình
Đoái nhìn sông Hương nước chảy thanh thanh
Sông bao nhiêu nước, dạ sầu bấy nhiêu !
Biến cố của Kinh thành Huế sau khi vua Tự Đức(1829-1883) băng hà, để lại những rối ren trong nội bộ triều chính, (2) được nhắc lại qua cao dao :
Một nhà sinh được ba vua(3)
Vua còn, vua mất , vua thua chạy dài
Gẫm xem thế sự mà rầu
Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Nhất giang lưỡng quốc nam phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường (4)
Thực dân Pháp đô hộ, Triều đình Việt Nam mất hết uy quyền chỉ làm vì, thực quyền do thực dân và bọn tay sai cai trị, bóc lột tận xương tủy dân tộc. Các vua quan Việt Nam đều phẩn uất. Thành Thái bị phế, vua Hàm Nghi và Duy tân đều muốn khởi nghĩa dành lại độc lập, nhưng đều thất bại. (5)
Chiều chiều trên (trước) bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu , ai sầu, ai thảm ?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông ?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông ?
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non!
Sông Hương chảy đến chợ Đông Ba chia làm ba nhánh, không kể sông Đông Ba chảy dọc theo phía Đông hoàng thành về Bao Vinh, một nhánh chảy về Gia Hội chợ Dinh, Bãi Dâu , một nhánh chảy dọc theo thôn Vĩ Dạ xuống ngã Ba Sình. Ở giữa hai nhánh nầy là Cồn Hến. Một nhánh khác chảy về Chợ Cống có Đập Đá ngăn lại.
Thuyền từ Đông Ba, thuyền qua Đập Đá
Thuyền về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình
Lờ đờ bóng ngả chênh chênh
Gịong hò xa vọng, nhắn tình nước non
Thời thế ngửa nghiêng, Huế đôi lúc trỡ nên u buồn trầm mặc, sầu muộn trong thời tao loạn. những biến đổi của cuộc đời, chỉ để lại cho con người giọt nước mắt thương đau !
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Sầu vơi giọt lệ nước sông Hương
Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát,
Gần bến Bồ Đề có bãi phẳng lì
Trời ơi ! sang giặc làm chi ?
Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn !
Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng
Tiếng hát ngư ông giữa sông Nhật Lệ,
Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Một mình em ngồi giữa sông Hương,
Tiếng ca theo khúc đoạn trường ai nghe !
Nhiều sĩ phu không cộng tác với chính quyền thuộc địa, một lòng chống lại thực dân, nhưng không thiếu những người vì quyền lợi cá nhân làm tay sai cho giặc, để vinh thân phì gia
Đất Thừa Thiên trai thanh gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc, đền rồng
Tháp bảy tầng, thánh miếu, chùa Ông
Trách ai hai dạ một lòng
Tham đồng bạc trắng phụ lòng dân đen !
Tình yêu với tổ quốc cũng như gia đình được truyền tụng, cao dao chứa đựng được lòng hiếu thảo của con cái đối cha mẹ ông bà.
Đêm đêm khấn vái Phật ,Trời
Cầu xin cha mẹ sống đời với con
Vô chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành
Con gái lúc trưởng thành lập gia đình, theo chồng đi về một vùng trời nào xa xăm tận Quảng Nam… không quên nhìn mái nhà xưa thân yêu luyến tiếc tuổi thơ , xa gia đình theo quan niệm xưa” xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử”
Ra đi ngó trước ngó sau ,
Ngó nhà mấy cột , ngó cau mấy buồng.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Mỗi địa phương đều có những lời hát ru con, từ thành thị cho tới thôn quê có những nét giống nhau, nhưng âm hưởng tùy theo lời ru à ời ..kéo dài thanh thoát . Chúng ta đã được mẹ hiền, hát ru ngủ lúc còn bé nằm trong nôi, Những trưa hè thanh vắng trong thành nội, vọng lại tiếng hát ru con à ời kéo dài âm thanh như lời dặn dò
Mạ ơi ! chớ đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ!
Ru con con thét cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam phổ, mua trầu chợ Dinh
Cá tôm mua tại chợ Sình
Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường
Con chim xanh xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu ngành dâu da
Cực lòng em chẳng nói ra,
Chờ trăng trăng lặng chờ hoa hoa tàn…
Nguồn an ủi của tuổi già được sống bên con cháu có lòng hiếu thảo. Chữ hiếu là căn bản đạo đức của văn hóa lâu đời. Người Việt rất thiết tha với mái ấm gia đình. Các món ăn ngon, dâng ba mẹ dùng như gạo vùng An Cựu nổi tiếng thơm ngon. Cha mẹ phải từ giả cõi đời nầy, theo định luật sinh tồn của tạo hóa. Phong tục thờ cúng tổ tiên tưởng nhớ ông bà. Trông lên bàn thờ nhang tàn đèn tắt, cảm thấy nỗi buồn lắng đọng
Ngó lên nhang tắt đèn lờ
Mẫu thân đâu vắng bàn thờ lạnh tanh !
Mẹ Già như chuối ba hương
Như xôi nếp luột (một), như đường mía lau
Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo lúa de An Cựu mà nuôi mẹ già
Tình yêu là những rung động của hai tầng số tâm hồn gặp nhau, ca dao Huế cho tình ca đó len lỏi vào lòng, vượt thời gian tâm lý cũng như vật lý, tìm đến với tình yêu những phút giây đợi chờ, thương nhơ, hay giận hờn
Đường vô xứ Huế loanh quanh,
Non sông nước biếc như tranh họa đồ
Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang (6)
Phá Tam giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
Lời nguyện ước một lòng thủy chung, đá mòn theo thời gian xâm thực nhưng lòng người, tình yêu phải một lòng một dạ. Hạnh phúc không đánh đổi bằng tiền, không phải ở địa vị cao sang, hạnh phúc chính là ở chổ sống bên nhau, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Khi nào cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền !
Tay bưng dĩa nuối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau !
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo,
Sông An Cựu nắng đục mưa trong,
Đôi ta nguyện kết chữ đồng,
Đá mòn sông cạn mà lòng thủy chung!
Dãy dọc tòa ngang, giàu sang có số,
Kim Long, Nam Phổ, nước đổ về Sình
Hai đứa mình gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa mình không thể bỏ nhau
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá mòn, sông cạn mà lòng thủy chung !
Sông nước thiên nhiên, cô gái chèo đò duyên dáng mái tóc thề dưới chiếc nón bài thơ. Phong cảnh nhân tình như một bức tranh, đủ màu sắc, có sông hồ, có vườn, chùa..trái cây ngọt ngào ..
Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đây là chỗ rẽ của lòng
Mai kia rồi biết trên sông bến nào?
Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bạch diệp
Đất Hương Cần ngọt quít thơm cam
Ai về Cầu ngói Thanh Toàn
Cho anh về với một đòan cho vui.
Ai về Cầu ngói Dạ Lê,
Cho em về với thăm quê bên chồng.
Đố ai biết rít mấy chân
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người
Đông Ba, Gia Hội hai cầu
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông.
Nhớ nhung nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, những ước mơ thầm kín thuyền tình cập bến yêu đương
Kim Long có gái mỹ miều,
Ta thương ta nhớ, ta liều ta đi!
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn,
Chèo qua Ngọc Trản, đến vạn Kim Long ;
Sương sa gió thổi lạnh lùng ;
Sóng xao trăng lặn , gợi lòng nhớ thương !
Nỗi xót xa khi tình yêu bị chia ly, buồn cuộc đời dâu bể, cảnh vật đổi thay mỗi người một phương trời vô định
Nước chảy xuôi , con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vược lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng trên tay rớt xuống không phiền,
Phiền người bội nghĩa biết mấy niên cho hết sầu!
Em nói với anh như rìu chém xuống đá,
Như rựa chém, xuống đất, như mật rót vào tai.
Răng chừ em lại nghe ai
Qua cầu nghiêng nón chạm vai không chào ?
Anh nói với em như rìu chém xuống đá
Như rạ chém, xuống đất, như mật rót vào tai.
Bây chừ anh lại nghe ai.
Bỏ em ở chốn non đoài thảm chưa ?
Chia tay nhưng vẫn mơ ngày hội ngộ, với số phận đẩy đưa trong bi thương và gợi cảm
Cầu Trường Tiền sáu vài, mười hai nhịp
Anh qua rồi xin kịp về sau
Kẻo mai tê bóng xế ngang cầu
Bạn còn thương bạn biết gửi sầu nơi mô mà tìm ?
Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi
Thà rằng không biết thì thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn
Tập tục ngàn xưa dựng sẳn bức từng “môn đăng hộ đối” một chướng ngại lớn lao viễn ảnh đen tối của ái tình !!. Quan niệm hôn nhân, cha mẹ đặt đâu còn ngồi đó, hôn nhân gượng ép, tình yêu đôi khi phải phó mặt cho định mệnh an bài.
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong.
Đôi ta như chỉ lộn vồng,
Nợ thì có nợ, vợ chồng không duyên !
Bởi vì mẹ thầy lánh đục tìm trong
Cho nên duyên chàng, phận thiếp cứ long đong mãi hoài !
Sự kỳ diệu của tạo hóa, màu nhiệm của định luật ràng buộc ái tình đưa đến hôn nhân , đàn bà cần các đức tính “công dung ngôn hạnh” nhưng không thể thiếu lòng chung thủy.
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá mòn, sông cạn mà lòng thủy chung !
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng có đôi !
Lên non em cũng lên theo
Xuống thuyền em cũng đắp đeo mạn thuyền !
Ca dao là kho tàng văn chương bình dân vô giá, đi vào chiều sâu tâm tình vừa như nhớ nhung, nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, gợi lại hình ảnh xa xưa thời thơ ấu, kỷ niệm khó quên. Bài tham khảo không tránh những thiếu sót nhưng nhắc lại ca dao, mong sưởi ấm tâm hồn trong những ngày xa quê hương!
Chim bay lưng trời mà còn có tổ
Cá lội giữa dòng vẫn có hố hang
Người đời đã có tổ-quốc giang-san
Tình thần ý chí phải nhịp nhàng với non sông
Munich cuối Hạ 2002
——————————————————————————————————————————————-
Chú thích:
(1) Dưới thời vua Tự Đức để lại chiến công hiển hách, quân Pháp từ Thuận An tiến về Kinh thành Huế, bị quân triều đình mai phục bất thình lình đổ trái mù u ra mặt đường, giặc Pháp bị bất ngờ đạp trên trái mù u té, phục quân đổ ra đánh chém, giặc Pháp thua chạy dài, các hàng cây mù u xanh tươi của Xã Tắc còn đó, gợi lại niềm tự hào dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược.
(2) Các đại thần như Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và Tôn Thất Thuyết (1835-1913) đã chuyên quyền, cách chức ngự sử Phan Đình Phùng (1844-18959, và Ông Ích Khiêm. Trong bốn tháng kể từ ngày Tự Đức mất triều đình phế lập ba vua. Vua Hàm Nghi trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp ngày 23.4.1885 thất bại bỏ Kinh thành và thảo hịch Cần Vương, bị bắt ngày 26.9.1888 đày sang Algérie
(Kiên Thái Vương con thứ 26 vua Thiệu Trị có 5 trai hai gái, con đầu là vua Đồng Khánh(1863-1888), con thứ ba là Kiến Phúc(1872-1943) mất, con thứ năm là Hàm Nghi (1872-1943)
Ông Ích Khiêm (1840-1890) khảng khái ở trong ngục đã ngâm hai câu thơ trên, Sông Hương chia hai giòng nước, thì khó nói chuyện, một bên trong bên đục. Ngụ ý bờ bên kia là tòa Khâm xứ Pháp, bên nấy nầy thuộc Nam triều
(3)Trong bốn tháng phế lập ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc
(4) Hai chữ cuối của hai câu trên ám chỉ Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tương
(5) Cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân (1900-1945) năm 1916 thất bại vua Duy Tân bị bắt ngày 6-5-1916 bị đày san đảo Réunion. Trần Cao Vân (1866-1916) và Thái Phiên(1882-1916) cùng nhiều người yêu nước tham gia phong trào đều bị tử hình tại pháp trường An Hòa gần Huế. trong dân gian còn ghi nhớ, bến Văn Lâu nơi gặp gỡ của vua Duy Tân giả đi câu che sự theo dỏi của mật thám Pháp, bàn việc đại sự khởi nghĩa chống Tây
Truông là đồi cát có nhiều cây cối gọi là truông nhà Hồ địa danh Hồ Xá, Vĩnh Linh Quảng Trị thưở xa xưa nhiều toán cướp, cướp hành lý khách qua truông. Phá Tam Giang phá là hồ rộng lớn ở huyện Quảng Điền có 3 sông hợp lại Tả Giang,Trung giang, Hữu giang
Chú thích thêm về các thổ ngữ của người Huế Mẹ = mạ; ngó = nhìn ; ngủ muồi = ngủ cho ngon; đi mô = đi đâu; mai tê = mai kia , răng chừ = sao giờ; con rít = con rết; mần răng = làm sao; cái rạ = cái rựa..
Tài liệu Tham Khảo
Cố Đô Huế Tác giả Thái Văn Kiểm
Việt Nam Sử lược T.giả Trần Trọng Kim
Kinh Thi Việt Nam
Cao dao www.cadaovn.eu.tc